Lời giới thiệu
Kiên Hải là một huyện đảo thuộc tỉnh Kiên Giang được thành lập vào năm 1983 trên cơ sở một số đảo và quần đảo nằm trong vùng biển Tây Nam.
Ngược dòng lịch sử, cư dân sinh sống trên các đảo và quần đảo thuộc huyện Kiên Hải ngày này đã có mặt từ rất lâu đời, lao động khai thác tài nguyên rừng và biển; đồng thời chứng kiến những sự kiện lịch sử hào hùng trong suốt chiều dài lịch sử. Đặc biệt là từ sau Cách mạng Tháng Tám thành công, người dân trên các đảo đã một lòng theo Đảng làm cách mạng, góp phần vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc. Sau 1975, nhất là khi huyện được thành lập, Đảng bộ, quân và dân Kiên Hải nỗ lực hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục sản xuất, từng bước đưa Kiên Hải hòa nhập, phát triển khá toàn diện trên tất cả các lĩnh vực: Kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Cư dân trên đảo dù là ở lâu đời hay mới đến lập nghiệp cũng đều chung lòng, đoàn kết, ra sức phấn đấu bảo vệ và xây dựng huyện đảo Kiên Hải ngày càng phát triển xứng với tiềm năng và lợi thế của huyện.
Ghi lại lịch sử hình thành và phát triển của một vùng đất, một Đảng bộ là một việc làm hết sức khó khăn, nhưng rất cần thiết; vừa là ghi nhận công lao, truyền thống tốt đẹp của các thế hệ đi trước, đồng thời làm cho nhân dân các thế hệ sau này tự hào, ra sức gìn giữ và phát huy các truyền thống tốt đẹp để tiếp tục góp phần bảo vệ, xây dựng và phát triển quê hương ngày càng tươi đẹp.
Với ý nghĩa đó, năm 2005, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện (khóa V) đã tổ chức sưu tầm tư liệu, nghiên cứu, biên soạn và cho ra mắt bạn đọc quyển sách "Lịch sử Kiên Hải, 1983-2005". Sau một thời gian lưu hành, với thực tế và yêu cầu, quyển sách cần được bổ sung tư liệu, tái bản; đồng thời biên soạn bổ sung giai đoạn 10 năm tiếp theo (2005-2015).
Ban Biên soạn đã hết sức cố gắng, song quyển sách được tái bản lần này chắc chắn không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Mong đồng bào, đồng chí và bạn đọc gần xa tiếp tục góp ý để quyển sách được bổ sung, hoàn thiện trong các lần tái bản.
Xin chân thành cám ơn các đồng chí, đồng bào thời gian qua đã cung cấp tài liệu, góp ý kiến cho quyển sách; cám ơn Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Kiên Giang, trực tiếp là bộ phận Lịch sử Đảng đã hướng dẫn và tạo điều kiện thuận lợi để quyển sách được hoàn thành.
Ban Thường vụ Huyện ủy Kiên Hải xin trân trọng giới thiệu quyển sách "Lịch sử huyện Kiên Hải, 1983-2015" đến đồng bào, đồng chí trong huyện và bạn đọc gần xa./
T/M. BAN THƯỜNG VỤ HUYỆN ỦY KIÊN HẢI
Bí thư
Trần Quốc Việt
Chương I
TỰ NHIÊN
1. Vị trí địa lý
Kiên Hải là huyện đảo thuộc tỉnh Kiên Giang; trung tâm hành chính của huyện cách thành phố Rạch Giá khoảng 16 hải lí. Phía Đông giáp với huyện Châu Thành, phía Tây giáp với thành phố Phú Quốc, phía Nam giáp với huyện An Biên và An Minh, phía Bắc giáp với huyện Hòn Đất, Hà Tiên, Kiên Lương và Campuchia.
Huyện có 4 xã, gồm: Hòn Tre (trung tâm hành chính của huyện), Lại Sơn, An Sơn và Nam Du với tổng diện tích tự nhiên 2.459,80 ha (24,598 km2) gồm khoảng 23 hòn đảo lớn nhỏ, trong đó khoảng 11 đảo có dân sinh sống, với dân số 20.255 người (1).
Xã Hòn Tre rộng hơn 4,5km2 , là xã đảo gần đất liền nhất. Xã có 3 ấp (ấp I, ấp II và ấp III).
Xã Lại Sơn, cách Hòn Tre khoảng 14 hải lí về phía Tây Nam. Lại Sơn rộng khoảng 11,5km2, có đỉnh cao nhất khoảng 405m so với mặt nước biển. Xã có 4 ấp: Bãi Nhà A, Bãi Nhà B, Thiên Tuế và Bãi Bấc.
Xã An Sơn cách thành phố Rạch Giá khoảng 50 hải lí và cách xã Lại Sơn khoảng 16 hải lí. Xã có khoảng 11 hòn đảo, với tổng diện tích khoảng 13,2km2. Xã có 3 ấp: Củ Tron, Bãi Ngự và An Cư. Trung tâm hành chính của xã đặt tại ấp Củ Tron (Hòn Củ Tron cao 308m).
Xã Nam Du được thành lập vào ngày 2-9-2005, trên cơ sở tách ra từ xã đảo An Sơn. Xã có khoảng 10 hòn đảo, với 03 ấp: An Bình, An Phú và Hòn Mấu. Trung tâm hành chính đặt tại đảo Hòn Ngang, cách thành phố Rạch Giá khoảng 50 hải lí và cách xã An Sơn khoảng 4 hải lí.
2. Địa hình
Huyện Kiên Hải có địa hình là biển đảo, toàn bộ đảo là núi đảo, trong đó trên 70% là đá gốc, đá lộ, đá nổi có xuất xứ từ phún xuất Macma, chỉ một phần nhỏ là đá trầm tích, đá vôi, không có phù sa, lớp thổ bì rất mỏng. Đây là hệ quả của một quá trình biển tiến vào lục địa sau đó lùi đột ngột, tạo lập vùng nông và những núi đảo. Trầm tích phù sa cận sinh trên những đảo đã bị rửa trôi, bào mòn nên tầng đất mặt hầu như không đáng kể.
Núi đảo Kiên Hải có địa hình cao nhất là 405m (ở Lại Sơn), còn lại có địa hình cao trung bình so với mặt biển từ 100m - 300m.
3. Khí hậu
Huyện Kiên Hải nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, mang đặc tính chung của khu vực Tây Nam bộ, có 2 mùa là mùa khô và mùa mưa; nóng ẩm quanh năm. Nhiệt độ bình quân từ 24,4 - 31,10C, nhiệt độ cao nhất 37,80C, nhiệt độ thấp nhất 14,80C.
Độ ẩm bình quân năm từ 76-88%, trong mùa khô từ 76 - 80%, mùa mưa từ 83 - 88%, tháng 9 - 10 có độ ẩm cao nhất, tháng 4 có độ ẩm thấp nhất. Lượng bốc hơi bình quân là 1.200 - 1.300mm/năm, lượng nước bốc hơi trong mùa khô gần như bằng với lượng nước bốc hơi trong mùa mưa.
Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau, mùa mưa kéo dài 7 tháng trong đó chiếm 90% lượng mưa hàng năm, lượng mưa là 2.800mm/năm, lượng mưa mùa khô không quá 250 mm.
Chế độ gió: Huyện Kiên Hải chịu ảnh hưởng của gió mùa. Vào mùa khô, hướng gió chủ yếu là Bắc hoặc Đông, Bắc Đông Bắc và Đông. Đầu mùa (tháng 12) gió Bắc và Đông chiếm ưu thế rõ rệt với tần xuất mỗi hướng chiếm trên 30%; từ giữa mùa gió thịnh hành là Đông và Đông Nam.
Vào tháng 4 giao mùa, gió phân phối khá đều trên các hướng, tuy nhiên gió Tây Nam được coi là thịnh hành với tần suất khoảng 26%. Vào mùa mưa, hướng gió là Tây Nam hoặc Tây; trong đó gió Tây Nam chiếm ưu thế với tần suất 37 - 50%, còn gió Tây có tần suất 24 - 41%. Tháng 11 giao mùa gió thổi theo hướng Tây.
Giông, đạt trung bình năm từ 25 - 30 ngày. Giông thường kèm theo mưa rào và gió mạnh.
Sóng, do biển ven bờ huyện Kiên Hải rất cạn, nên sóng biển chủ yếu là sóng gió, các sóng có hướng Tây Nam - Tây Bắc ngoài khơi, chỉ xuất hiện vào mùa mưa, gây ảnh hưởng trực tiếp đến bờ biển. Thông thường độ cao của sóng biển ngoài khơi chỉ đạt trung bình 1 - 2 m, nhưng khi có gió mạnh sóng ngoài khơi có thể đạt 4 – 5 m.
Bão, vùng biển Kiên Hải ít xảy ra bão tố và áp thấp nhiệt đới. Tuy nhiên, cũng bị ảnh hưởng nhiều bởi áp thấp ở Biển Đông gây mưa, gió giật và sóng to rất nguy hiểm. Việc xuất hiện cơn Bão số 5 vào tháng 11/1997 cũng như một số cơn gió giật và lốc xoáy khá nguy hiểm ở vùng biển này vừa qua cho thấy cũng cần phải có các giải pháp phòng chống lụt bão cho ghe tàu đánh bắt, vận chuyển trên biển và sinh hoạt trên các đảo.
Khí hậu, thời tiết ở huyện Kiên Hải có những thuận lợi cơ bản rất thích hợp cho nhiều loại cây trồng và vật nuôi sinh trưởng.
4. Giao thông
Kiên Hải có hệ thống giao thông đặc thù, trước năm 2000, các đảo chỉ có 7,5 km đường nội bộ, trong đó mặt đường cán đá láng nhựa dài 3,8 km, đường đất đỏ 3,7 km. Đường Bãi Chệt, xã An Sơn dài 3,8 km được cán đá láng nhựa, các tuyến nội bộ xã Hòn Tre, Lại Sơn, An Sơn là đường đất đỏ (đường lộ ấp I, xã Hòn Tre dài 583m; lộ ấp II, xã Lại Sơn dài 548m; lộ Thiên Tuế, xã Lại Sơn dài 1.578m và đường Bãi Ngự, xã An Sơn dài 1.000m, lộ xung quanh xã Hòn Tre, xã Tiên Hải dài 3,5 km, rộng 2,5m). Hiện nay, các xã Hòn Tre, Lại Sơn, An Sơn và Nam Du đã được đầu tư làm đường bê tông quanh đảo, ngang đảo, lộ giao thông nông thôn rất thuận tiện cho việc đi lại của nhân dân.
Đường biển là phương tiện giao thông chính nối huyện đảo với đất liền và các xã trong huyện. Các phương tiện vận tải biển vận chuyển hàng hóa, hành khách, phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt đều có thể cập được bến ở các đảo trong huyện. Hiện nay, trên các tuyến từ Rạch Giá đi Hòn Tre, Lại Sơn, An Sơn đã có nhiều tàu cao tốc hoạt động nên việc đi lại giữa các đảo rất nhanh chóng và thuận lợi; cơ bản đáp ứng được yêu cầu đi lại của nhân dân vùng đảo.
Xã An Sơn (Quần đảo Nam Du) có cầu cảng được xây dựng vào loại lớn nhất trong các đảo ở Kiên Hải. Tại đảo Củ Tron vào mùa gió nồm (gió Nam), cảng đón nhận hàng trăm tàu đánh cá các loại từ các nơi đổ về để giao cá, sửa chữa, tiếp phẩm, tiếp liệu…
Cảng Hòn Tre được xây dựng với quy mô vừa, đủ để cho các tàu đánh cá với công suất nhỏ vào neo đậu, vận chuyển hàng hóa từ Rạch Giá về trung tâm huyện Kiên Hải và ngược lại. Eo núi này đồng thời cũng tạo nên một vùng neo tàu tự nhiên khá thuận lợi. Cảng Hòn Tre có độ an toàn cao, vì cảng nằm ngay ở cửa vịnh Rạch Giá, quay mặt về hướng đất liền. Với vị trí như thế, Hòn Tre như một bức bình phong thiên nhiên, án ngữ ngay cửa vịnh Rạch Giá, làm giảm bớt cường độ của những cơn gió mùa Tây Nam.
5. Tài nguyên
Đất đai:
Tổng diện tích đất tự nhiên của huyện là 2.459,80 ha, trong đó đất sản xuất nông nghiệp là 613 ha; đất lâm nghiệp là 1.287 ha; đất chuyên dùng là 77 ha và đất ở là 49 ha.(2)
Rừng:
Trước 1950 ở Kiên Hải, rừng che phủ 60% đất đai tự nhiên, mặc dù đá lộ, đá nổi chiếm trên 70%. Những cây ăn trái lưu niên, thân gỗ, như xoài, mít, dừa đã thay thế một phần rừng tự nhiên, nhưng vẫn cân bằng sinh thái và phòng hộ môi trường.
Từ những năm 1970 trở lại đây, rừng tự nhiên bị khai thác quá nhiều, tàn phá nặng nề. Những cây ăn trái lưu niên không được chăm sóc và trồng thêm. Độ che phủ của thực vật trên các núi đảo giảm sút.
Những khu rừng được xác định có đầy đủ điều kiện lập khu vực bảo tồn thiên nhiên hiện chỉ còn lại Hòn Sơn Rái, Hòn Củ Tron, Hòn Dô (xã Sơn Hải) và Hòn Nhum Bà (xã Sơn Hải). Khu bảo tồn này gắn kết với việc bảo tồn các loài động vật hoang dã, đặc trưng của vùng hải đảo như các loài chim, thú, lưỡng cư, bò sát…
Biển:
Hải sản trong vùng biển thuộc địa phận tỉnh Kiên Giang nói chung và Kiên Hải nói riêng, nhất là ở ven các đảo có trữ lượng rất lớn.
Trong vùng biển Kiên Hải, các cơ quan chuyên môn xác định được 131 loài tảo, trong đó 103 loài tảo silic, 21 loài tảo giáp, 6 loài tảo lam và 1 loài tảo mắt, 79 loài động vật nổi và 83 loài động vật đáy, trong đó có 26 loài thuộc lớp giun nhiều tơ, 25 loài giáp xác, 23 loài thuộc ngành thân mềm, 8 loài da gai và 1 loài cá đáy.
Về chủng loại cá, vùng biển này rất phong phú. Các ngư phủ giàu kinh nghiệm nhất cũng không thể biết hết mặt, hết tên các loại cá có trong ngư trường của mình. Kiên Hải mới xác định được 273 loài, 139 giống thuộc 71 họ.
Trong tổng số loài hải sản khai thác được, thì cá đáy và gần đáy chiếm hơn 50%, có 20 loài cá thường gặp, chiếm sản lượng cao thuộc 16 họ như họ cá liệt, họ cá khế, họ cá trích, họ cá thu, họ cá lượng, họ cá thiều, họ cá hồng, họ cá sạo, họ cá phèn, họ cá mối, họ cá móm, họ cá cơm, họ cá nóc, họ cá lù đù, họ cá bò, họ cá nhồng...
Tôm có 23 loài, thuộc họ tôm he (Penacidac), trong đó tôm thẻ chiếm khoảng 30-35%, tôm chì 15-20%. Tôm là loại có vòng đời ngắn, sức phục hồi đàn nhanh, phân bố gần bờ, gần cửa sông.
Mực có 23 loài, trong đó mực ống (loligo), mực nang (Sepia) có giá trị kinh tế cao.
Đáy biển là cát pha bùn lẫn vỏ loài nhuyễn thể. Có thể khai thác hải sản quanh năm, nhưng hiệu quả nhất là vào tháng 7 đến tháng 3 năm sau.
Biển Kiên Hải có nhiều loại rong. Các loại rong có giá trị kinh tế cao thuộc 2 ngành rong đỏ (Rhodophyta) và rong nâu (Phacoppphyta). Rong biển có nhiều công dụng như làm thức ăn cho người ở dạng tươi hoặc khô, dùng làm dược liệu, (mỹ phẩm, làm thức ăn gia súc, làm phân bón (trồng rau sạch)), làm keo trong công nghiệp thực phẩm. Hiện nay, Kiên Hải chưa tận dụng và khai thác tốt nguồn tài nguyên này, chỉ có một số người dân ở các tỉnh miền Trung đến khai thác tự nhiên, mỗi năm khoảng trên 300 tấn để chế biến thành các món giải khát.
Vùng biển Kiên Hải còn có các loài trai quý có khả năng tạo ngọc như trai môi vàng, điệp.
Nước và nguồn nước:
Nước ngọt của huyện Kiên Hải chủ yếu là nước mưa, với lượng mưa trung bình hàng năm khoảng 2.800mm. Vào mùa mưa, nước ngọt được trữ trong các hồ, giếng khơi để phục vụ cho sinh hoạt và một phần sản xuất nông nghiệp.
Nước rửa trôi xói mòn mạnh trong mùa mưa tạo nên những dòng chảy mặt có lưu vực hẹp và một phần thẩm thấu. Trong mùa khô, những dòng chảy mặt bị cạn kiệt, chỉ còn mạch ngầm. Trên những đảo lớn như Hòn Tre, Lại Sơn, Củ Tron, mùa mưa xuất hiện một số suối, khe nước chảy tràn.
Các đảo nhỏ trong quần đảo Nam Du, mùa mưa vẫn không có nước suối, mùa khô dùng nước giếng. Các mạch ngầm phải khơi ở độ sâu từ 2 đến 10 mét mới có nước. Năm 2000, đảo Củ Tron được Nhà nước đầu tư 5,8 tỷ đồng xây một hồ chứa nước lớn.
Ưu thế nổi bật của Hòn Tre và Hòn Sơn Rái là nguồn nước ngọt phong phú. Từ những hang động ngang dọc trong lòng núi, nước được giữ lại và cung cấp suốt mùa khô cho dân trên đảo và những con tàu cập bến. Khi xưa chưa đào được kênh Thoại Hà (1818), dân vùng Rạch Giá, An Biên, Hòn Đất phải chèo thuyền ra Hòn Tre lấy nước ngọt về dùng.
Ở Hòn Nghệ, tuy không có suối nhưng vẫn có nước ngọt quanh năm, nhờ khai thác từ các giếng nước sâu 4 – 5 m dưới chân núi. Gần đây, có thêm giếng khoan, nhờ vậy các xã đảo phần nào đã khắc phục nạn thiếu nước cục bộ. Tuy nhiên, vấn đề nước sạch cho các hòn đảo với hơn 20 ngàn nhân khẩu đang sinh sống là vấn đề nan giải.
Năm 2000, tỉnh đầu tư cho xã Lại Sơn 3 giếng khoan, nhưng chỉ đủ cung ứng cho hơn 200 hộ dân tại ấp Bãi Nhà B, trong mùa khô thì không thể. Nhân dân ở 2 ấp Bãi Nhà và Bãi Bấc vẫn sử dụng nước suối. Dân ở Bãi Giếng (ấp Thiên Tuế), chiếm gần nửa số hộ dân trên đảo, nơi có trường học, bưu điện văn hóa xã, trạm thu mua hải sản… chỉ có một cái giếng đào, nước sinh hoạt trong mùa khô luôn gặp khó khăn.
Nguồn nước ngọt trên các đảo, kể cả nước mưa, bị cạn kiệt. Nước chảy trên mặt khe rãnh chỉ xuất hiện trong mùa mưa và sớm khô cạn khi cơn mưa ngừng.
Thông thường dân trên đảo, muốn có được nguồn nước suối dẫn về nhà phải tìm mạch nước chưa có ai “sở hữu” và phải có độ dốc thích hợp. Khi đào xong người ta phải lấy thùng nhựa ấn xuống độ sâu chừng 2 mét để cho cát lấp xuống, như vậy mới có nước sinh hoạt.
Nước ngầm, theo tài liệu điều tra (năm 2000) thì Hòn Tre và Lại Sơn có cấu tạo địa tầng như sau: Lớp 1, cát bột lẫn sét màu vàng, cuối lớp lẫn dăm đá gốc; lớp 2, đá xâm nhập granit - granosenit, biotit hạt trung, màu hồng; đôi khi có kiến trúc forphyr yếu, đá nứt nẻ tốt, khả năng chứa nước trung bình, chất lượng nước đạt các yêu cầu lý hóa phục vụ sinh hoạt.
Nước biển, độ mặn trung bình của nước biển là 31g/lít, độ mặn hai mùa ổn định trên 30, chất lượng nước vùng hải đảo rất tốt, độ trong cao (5,9m vào mùa mưa và 5,5m vào mùa khô). pH có tính kiềm (pH = 8,0 mùa khô và pH = 8,2 mùa mưa). Oxy hòa tan đạt 5,1mg/l vào mùa khô và giảm xuống còn 4,6mg/l vào mùa mưa. Đạm đạt 0,31mg/l vào mùa khô, giảm xuống còn 0,16mg/l vào mùa mưa.
Nói chung, chất lượng nước vùng biển Kiên Hải tốt, thuận lợi cho việc nuôi trồng thủy sản trên biển như: Nuôi trai lấy ngọc, cá lồng, ốc hương, bào ngư, trồng rong biển… Độ pH, độ mặn và tổng lượng chất lơ lửng (TSS-vi sinh vật) khá ổn định và thích hợp cho sự phát triển của các loài thủy sản.
Chương II
XÃ HỘI
1. Dân số và lao động
Vào khoảng thế kỷ thứ XVIII, đảo đông dân cư nhất là hòn Sơn Rái. Những hòn khác chỉ tiếp nhận dân cư theo kỳ, khi khai thác xong nông sản, hải sản rồi họ trở về đất liền. Dần dần về sau mới có dân định cư ổn định, trồng dừa, như ở Hòn Tre, Hòn Ngang, Củ Tron.
Năm 1945, toàn đảo Hòn Tre có khoảng 10 gia đình, đến năm 1968 có 37 hộ với trên 300 người. Còn trên quần đảo Nam Du (xã An Sơn), có 4 gia đình, đến năm 1975 mới có khoảng 100 gia đình với dân số trên dưới 500 người. Năm 1983, toàn xã có khoảng 200 hộ với hơn 1.000 dân, đến năm 2005, có gần 8.000 người.
Năm 1819, ở Lại Sơn có trên dưới 30 người được xem là xã đông dân nhất lúc bấy giờ. Đến năm 1945 có khoảng 500 người. Đến năm 1970 có khoảng 2.635 người. Đến năm 1983, có khoảng 700 hộ với 3.800 dân. Đến năm 2005, có trên 8.000 người.
Khi thành lập huyện, toàn huyện có 7.687 người. Sau 10 năm, (1993), dân số của huyện tăng lên gấp đôi là 14.699 người.(3) Đến năm 2015, dân số toàn huyện có 20.255 người. Mật độ dân số bình quân 823 người/km2. (4)
Dân cư phân bố tập trung theo ven đảo. Tỷ lệ tăng dân số cơ học của huyện qua các năm khá cao, nhất là các năm từ 90-95, những năm gần đây có giảm, nhưng vẫn ở mức 0,65% - 0,7% mỗi năm.
Về lao động, toàn huyện, có 10.661 người trong độ tuổi lao động số không có việc làm ổn định là 890 người, chiếm 8,30%.
Giai đoạn 1996-2000 người lao động làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân tăng bình quân hàng năm từ 2,75% trở lên, tương ứng với 1.919 người. Tỷ lệ thất nghiệp là 8,3%.
Cơ cấu lao động chuyển dịch còn chậm, lao động nông - lâm - thủy sản có giảm hàng năm, nhưng vẫn còn chiếm tỷ lệ lớn so với các ngành kinh tế khác. Hiện nay, lao động trong ngành thủy sản chiếm 60,43%; nông lâm nghiệp chiếm 3,79%, công nghiệp xây dựng chiếm 8,83% và dịch vụ chiếm 26,93%.
Trình độ chuyên môn của người lao động còn thấp, chủ yếu là lao động phổ thông đơn giản, chỉ có 10 -15% lao động đã qua đào tạo.
2. Nghề đặc trưng
Nhiều thế kỷ trước, vùng biển Tây Nam, đoạn từ Rạch Giá đến Hà Tiên thương cảng mở rộng, thuyền buôn các nơi lui tới tấp nập, mặt hàng thủy sản được ưa chuộng nhất là cá khô, mắm ruốc, hải sâm, bong bóng cá, đồi mồi, nước mắm…
Để có khối lượng hàng hóa lớn, nhân dân ở các đảo phải hỗ trợ nhau sản xuất, nâng sản lượng, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của các xứ lân bang.
Qua việc giao lưu buôn bán với nước ngoài, nhân dân mua được vật tư thiết yếu như lưới, sợi... học được kinh nghiệm, từ đó phát triển ngành nghề. Nghề lưới rùng, lưới trũ, vó, nò xiêm và các nghề trong lộng khác hình thành.
Lúc ban sơ, tôm cá bắt được vẫn “bữa nào là ăn hết bữa nấy” rất đơn giản, nhưng khi khai thác có sản lượng lớn, nhân dân trên các đảo tìm cách chế biến để dự trữ phòng khi có bão tố không đi biển được, thường theo kinh nghiệm mà làm dưới các dạng, như:
- Dạng khô, nếu cá nhỏ thì để nguyên con, sau khi làm sạch đem ra phơi dưới nắng trời như tôm khô, cá khô các loại, đồn đột. Cá lớn thì xẻ ra từng thỏi hoặc từng bộ phận như khô đuối, khô thiều, vi cá, bong bóng cá đường... dạng này để được lâu ngày.
- Dạng chín, làm bằng cá ngon, thơm, thịt chắc, được xếp vào thùng hoặc vỉ tre đem hấp cho chín, như bạc má, cá mòi, cá ba thú... Dạng này ngon, bán được giá.
- Dạng ướt, cá được xử lý, ướp muối, trộn thính rồi cho vào hũ nén chặt như mắm cá nục, mắm ruốc… Dạng này để lâu càng ngon, khi ăn cần phải có nhiều gia vị như ớt, tiêu, rau thơm… Loại này khi di chuyển thì cồng kềnh, có mùi.
- Dạng nước, đối với loại cá nhỏ nổi theo đàn, dễ bắt được nhiều, nhưng thịt bở, ít xương, nếu làm mắm thì không giữ được nguyên con, nên nhân dân ở đây chế biến thành dạng nước (nước mắm).
Trước kia người ta thường làm theo kiểu “nước mắm nấu”. Cho cá được ướp thành chượp vào lu, hũ rồi đem phơi nắng và khuấy đều (mưa phải đậy nắp lại); độ vài tháng sau đem ra nấu, lọc lấy nước mắm, còn xác thì bỏ đi.
Cách làm nước mắm nấu sau một thời gian thì chấm dứt, vì nhân dân ở đây (chủ yếu ở Lại Sơn) đã học được cách làm nước mắm ở Phú Quốc theo phương pháp ướp muối vào cá, ủ kín lâu ngày (thường là từ 6 tháng trở lên). Lúc đầu vẫn ủ bằng lu, hũ, nhưng qua thực tế nhân dân thấy lu, hũ có sức chứa hạn chế và khó thao tác nên đã lên rừng tìm loại gỗ phù hợp đóng thùng chứa để ủ làm nước mắm.
Nước mắm được chiết ra từng “tĩn” bằng đất nung hình quả trám, có dung tích khoảng 3 lít, bên trong có tráng men màu sẫm; phía ngoài tô vôi và dán nhãn hiệu. Nắp đậy bằng mảnh gỗ nhỏ, lót một miếng vỏ tràm cho kín sát. Người ta dùng sợi mây nức ràng chặt nắp, hai đầu dây quấn lại thành quai xách. Tĩn nước mắm trông rất gọn, sạch sẽ, không tỏa mùi hôi, rất tiện ích cho khách hàng.
Ngoài số cung ứng cho tàu bè tứ xứ đến vào mùa thuận gió, cư dân trên các đảo, chủ yếu là Hòn Sơn Rái, dùng ghe buồm chở mắm ruốc, nước mắm đi Cần Vọt (Campuchia) và các vùng trong nước để bán. Vào những năm đầu của thế kỷ 20, Hòn Sơn Rái đã là nơi sản xuất tập trung nhiều nước mắm ngon (chỉ đứng sau Phú Quốc).
Nghề biển cũng lắm gian truân và bất trắc. Trải nhiều đời, học hỏi khắp nơi, cư dân trên đảo đã sáng chế ra nhiều phương thức khai thác hải sản độc đáo.
Mỗi loài thủy sinh biển đều có cách đánh bắt riêng tùy theo tập quán sống của chúng. Có nhiều hình thức như lưới, cào, câu, bẫy rập…
Dân trên quần đảo Nam Du chủ yếu sống bằng nghề lưới cá và thẻ mực.
Đặc sản ở đây trước hết là mực, mực nhiều và ngon, thơm. Vào mùa mực, mỗi sáng hàng trăm ghe lớn nhỏ thẻ mực trở về đậu kín bãi. Chiều xuống, mỗi người một xuồng nhỏ, chèo tới bãi mực. Mặt trời lặn, các đèn măng xông được thắp sáng lên, lúc này mặt biển như thành phố sáng rực sao sa, mực thấy ánh đèn lần tới. Người trên ghe thảy xuống nước một sợi dây dài 2m có buộc 6-7 sợi vải trắng. Mực tưởng mồi bám theo bị vợt xúc.
Quần đảo Nam Du có rất nhiều loại mực như mực lá, mực nang, mực ống, mực bạch tuộc và mực túi. Mực lá, mình tròn dẹp (tựa như cái dĩa) con lớn nhất độ 2 kg. Mực nang hơi tròn, bằng bắp tay, chiều dài lối hơn một tấc, trên lưng nó có một miếng nang độ hai đến ba ngón tay, tùy theo lớn nhỏ. Mực ống, cũng giống như mực nang, nhưng trong sống lưng là miếng nang mỏng bề ngang hơn 1 phân (1 cm) chạy dài từ đầu đến đuôi. Con lớn nhất chiều dài độ 2 tấc (20 cm). Mực thước, hình dáng giống như mực ống nhưng nó lại có chiều dài hơn, có con độ hơn 3 tấc (30 cm). Mực tuộc, đầu to, mình ngắn, vòi nhiều và dài hơn các loại khác. Có con to bằng nắm tay. Mực túi, cũng giống như mực tuộc, nhưng rất nhỏ, con lớn nhất chỉ bằng ngón chân cái trở lại mà thôi.
Đánh bắt mực cũng có nhiều cách: thẻ, câu, đặt ốc, đặt bống (rập). Cách thẻ: ngày xưa bắt mực chỉ có một cách độc nhất là thẻ. Dụng cụ thẻ mực cũng đơn giản gồm có xuồng (ghe), nhiều vải màu (trừ màu đen) cục chì hay miếng chì và nhợ câu. Người thợ đi câu buộc mút đầu dây một cục chì tròn dài (hay vuông) có dùi lỗ. Cách cục chì độ 2 tấc (20 cm), người ta buộc một chùm vải (mỗi miếng dài bằng ngón tay dài độ hơn 1 tấc (1 cm)). Có thể buộc hai hoặc ba chùm, mỗi chùm cách nhau độ hai thước, làm xong việc trên, người thợ mới quăng dây câu cách thuyền độ 3 thước, chừng nào sợi dây thẳng, người thợ mới nắm dây câu “giựt giựt”. Chùm vải màu ở dưới động đậy mực tưởng mồi nhào đến ôm ăn. Người thợ câu cảm thấy dây câu rung rinh nhiều hơn và nhóng thử thấy dây nặng liền kéo từ từ lên. Khi thấy mực thì phải lấy vợt xúc nhanh không nhanh mực vuột (sẩy). Lối thẻ mực này mất nhiều thời gian mà ít hiệu quả vì số mực vuột nhiều.
Cách câu: Người câu dùng dây thun kim tuyến buộc vào cục chì nặng độ 100gram, mỗi cục là một lưỡi câu, lưỡi câu uốn hình chữ V đầu dài, đầu ngắn. Đầu lưỡi câu ngắn, nhọn không có ngạnh, đầu dài thì quấn dây thun buộc chì, mỗi cục chì cách nhau khoảng 2 thước. Người thợ thả câu xuống, ngồi chờ một thời gian ngắn kéo lên, chùm nào có mực là bắt được ngay. Cách này có hiệu quả hơn cách trước, vì khi thấy kim tuyến, con mực sẽ bám vào, khi đã bám các lưỡi câu sẽ đâm vào thân mực, chúng không thể nào thoát được.
Những người bắt mực bằng lon (thường bằng lon sữa bò, hay lon đựng thức ăn)… Lon rỗng bóp miệng móp lại, chừa chỗ cho mực chui vào. Ở miệng có dùi lỗ để buộc dây. Mỗi lon có buộc thêm một cục đá nặng cỡ độ 200g để neo lon. Mỗi lon buộc cách nhau 2 hoặc ba thước, mỗi dây có từ 10-12 lon. Mỗi ghe có thể chở từ 150-180 cái lon, còn có thể hơn nữa tùy theo khả năng.
Cách bắt mực bằng bống (một loại rập), cách này đang thịnh hành nhất vì có hiệu quả cao hơn các phương cách khác. Muốn làm bống người ta dùng cây bằng ngón tay nhưng dẻo, uốn dễ. Họ uốn thành hình bán nguyệt, chung quanh quấn lưới (4 mặt), có làm cửa, cửa làm 2 cánh, chừa kẽ để cho mực vào (cửa làm như cửa đăng, cửa đó của vùng nước ngọt, trước đầu cửa có chỗ buộc dây). Trên lưng bống phủ kín lá, phủ bằng lá đủng đỉnh dùng lâu hơn. Dưới bụng bống có neo một cục đá chừng 2 kg. Trên lưng bống ở giữa có cái cây cứng để buộc mồi (thường dùng là trứng mực). Một ghe đánh mực có thể chở từ 120-150 cái bống. Đến nơi thả bống, bống thả cách nhau 30m. Mỗi cái bống có đoạn dây dài tương ứng với độ sâu của nước. Trên đầu dây có buộc một miếng xốp hay thùng cal mũ để biết chỗ bỏ bống và đó là của ai. Mỗi cái bống có khi bắt được 9-10 con, có bống ít hơn. Loại mực tuộc thích ở nơi kín đáo, thấy bống kín là tranh nhau vào, nhất là khi chúng bắt được hơi mồi.
Sáng đi đặt bống, đến 12 giờ trưa đi gom bống, chiều sửa lại bống (hư hao sửa chữa thay cái mới) sáng lại đi. Cứ tuần tự như vậy mà làm. Đánh bắt mực ban đêm thì trúng hơn. Nhưng ban đêm thường bị ghe cào, cào mất bống. Mùa mực từ tháng giêng đến tháng tư. Các tháng khác cũng bắt được, nhưng thường có gió bão nên ngư dân ít đi.
Quần đảo Nam Du có nhiều loài ốc có giá trị kinh tế cao như điệp, ngọc nữ, ốc đá, ốc tai tượng, ốc nón, ốc gai...Riêng điệp có 2 loại, điệp giấy và điệp đá. Điệp đá vỏ xù xì màu trắng đục, con lớn nhất có khi đến 4 kg; điệp giấy thì vỏ mỏng hơn, màu trắng hồng, lớn nhất là 3,4 con/1 kg. Điệp thường sống vùng nước sâu, nằm dưới lớp cát, có khi trồi lên mặt cát bám ở kẹt đá hay đóng ở cây dương biển. Ngọc nữ vỏ màu xanh nhạt, khoảng 5,6 con 1 kg, nó sống ở rạng, ở ghềnh, bám trong kẹt đá hay trên cây dương biển.
Điệp và ngọc nữ thường có ngọc; ngọc nhỏ như hạt cát, ngọc lớn gồm bằng nửa hạt bắp, màu trắng đục, gắn vào mặt dây chuyền hay nhẫn đeo rất đẹp, đeo càng lâu càng lên nước hồng, bóng láng. Ngoài ngọc ra, vỏ của loại ốc này, còn dùng để khảm đồ gỗ. Ốc đá, ốc tai tượng cũng có ngọc, nhưng không có giá trị thương phẩm, vỏ của nó cũng dùng trong ngành mỹ nghệ.
Dụng cụ dùng để bắt ốc cũng khá đơn giản. Người bắt ốc cần có những phương tiện như tàu thuyền, bình hơi, dây chuyển hơi (bằng ống nilon, phải dài hơn độ sâu của nước để di chuyển được dễ dàng), chỉ đeo vào người vật nặng từ 7 - 8 kg, kính lặn, bao tay, giày, túi đựng. Không phải con điệp, ngọc nữ nào cũng có ngọc, có khi 5, 10 con mới tìm thấy 1 con có ngọc, rất vô chừng. Người ta coi đó là sự “may rủi”, “phước đức” của người thợ lặn.
Đặc sản khác của đảo là bào ngư. Đây là món ăn ngon và bổ, ngon nhất là bào ngư nấu cháo đậu xanh. Bào ngư phơi khô làm mặt hàng xuất khẩu cao giá trên thị trường. Nếu có cách bảo quản để xuất khẩu được bào ngư tươi, giá trị sẽ tăng gấp bội, vì trong ruột bào ngư có chất ê te mang mùi thơm riêng, vừa lòng khách ăn sành điệu...
Trước kia khi nghề cá chưa phát triển, những vườn xoài, dừa, mít, mãng cầu là nguồn thu nhập chính của cư dân Hòn Tre. Hiện nay, để tăng thêm hiệu quả, người ta còn đưa thêm các giống cây trồng mới du nhập vào đảo như tiêu, mận, táo… để tạo nguồn thu hoạch quanh năm.
Nghề vườn ở Kiên Hải nói chung thuộc về những gia đình đã định cư trên đảo từ nhiều đời. Đó cũng là những gia đình khá giả ở Hòn Tre, Lại Sơn, Củ Tron. Làm vườn nhàn nhã và ổn định hơn so với nghề đi biển nhiều sóng gió.
Ngày nay, nguồn thu nhập chính của người dân huyện đảo Kiên Hải dựa vào nghề khai thác hải sản. Những năm gần đây nguồn hải sản ngày càng cạn kiệt, giá xăng dầu và ngư lưới cụ tăng cao nên đa số ngư dân đánh bắt gần bờ bị thua lỗ, đời sống gặp nhiều khó khăn. Muốn đánh bắt hải sản xa bờ, ngư dân phải có vốn lớn để đóng tàu công suất lớn, chủ tàu phải có trình độ quản lý, tay nghề và am hiểu ngư trường khơi xa.
Gần đây, mô hình nuôi hàu đã được áp dụng tại xã Hòn Tre. Song mô hình này mang lại hiệu quả không cao, do nguồn nước không ổn định, thiếu kinh nghiệm và nguồn thức ăn tự nhiên không thích hợp với con hàu. Qua khảo sát thực tế, huyện tạo điều kiện để ngư dân đến xã Sơn Hải và Hòn Nghệ (huyện Kiên Lương) học hỏi kinh nghiệm nuôi cá mú lồng trên biển.
Cá mú bắt ở tự nhiên mang thả vào lồng nuôi và cho ăn các loại cá tạp tận thu sau những chuyến biển. Nghề nuôi cá mú ở Kiên Hải bước đầu thích hợp với môi trường vùng biển này, giá trị kinh tế thu được khá cao. Song cái khó nhất với ngư dân trên đảo là thiếu vốn để đóng lồng, mua cá giống và thức ăn nuôi cá.
Dân xã Lại Sơn có hai nghề chính: nghề biển và nghề rẫy. Riêng dân sinh sống trên Hòn Sơn Rái còn có nghề truyền thống sản xuất nước mắm. Nước nắm Lại Sơn được gọi là nước nắm Hòn, thuộc loại ngon có tiếng. Dân làm rẫy chủ yếu sống ở Bãi Bấc, khoảng 500 người sống bằng nghề làm vườn, diện tích vườn ngày càng mở rộng.
Lại Sơn sớm phát triển đội tàu đánh bắt xa bờ có trọng tải và công suất lớn. Những chiếc tàu này có khả năng đi biển dài ngày, vươn tới những ngư trường lớn ở tận biển Đông.
Thời gian nằm ụ giữa hai vụ cá, đảo biến thành một xưởng vá lưới. Loại lưới mặt dày đến con ruồi chui qua không lọt này là lưới rút, dùng để đánh bắt cá cơm. Một mành lưới cá cơm rộng 10 mét, nhưng chiều dài có khi dài đến cả cây số. Đánh trúng luồng cá, rút mẻ lưới lên có khi nặng đến chìm tàu. Trong trường hợp đó, chủ ghe phải gọi các ghe khác đến chia, san xẻ, có khi ngư phủ phải lặn xuống, rạch lưới xả bỏ bớt cá.
Cá cơm sọc phấn ủ làm nước mắm rất thơm ngon, không có loại cá nào sánh nổi. Nước mắm ở Hòn Sơn Rái được chế biến từ loại nguyên liệu thượng phẩm này theo một cách thức đặc biệt, nên có hương vị đặc biệt khác với nước mắm sản xuất nơi khác.
Nghề làm nước mắm ở Lại Sơn có từ khá lâu. Trước kia người ta ủ mắm trong các chượp, ghè sành. Nay thì đã hình thành những xưởng làm nước mắm với những thùng gỗ, bồn bê tông có dung tích hàng chục mét khối. Sản lượng nước mắm của đảo đã lên đến 3 triệu lít mỗi năm.
Nước mắm hòn ngon và nhiều như vậy, nhưng cho đến nay vẫn chưa hình thành một thương hiệu riêng trên thị trường. Lại Sơn hiện có gần 20 hãng nước mắm tư nhân: Đức Ngươn, Đông Vân, Phương Khanh, Thùy Dương, Phước Lộc, Hồng Nam, Hồng Phước, Vĩnh Quý, Lộc Hưng, Hải Đăng, Hồng Hải, Nam Sơn, Nam Phong, Thanh Tú, Hồng Vân, Lai Sĩ…
Hiệp hội các nhà chế biến nước mắm Lại Sơn chỉ vừa mới được thành lập, hy vọng tổ chức này sẽ sớm thúc đẩy việc xây dựng thương hiệu riêng cho nước mắm Lại Sơn.
Kiên Hải có ngư trường khá rộng lớn, có thể phát triển việc khai thác hải sản, chế biến nước mắm, nuôi cá lồng trên biển. Trữ lượng thủy sản vùng biển Kiên Hải khá lớn nhưng sản lượng đánh bắt hải sản hàng năm còn thấp. Nuôi trồng hải sản mới phát triển chưa ngang tầm với tiềm năng và lợi thế hiện có của huyện.
3. Nhà ở và tập quán cư trú
Theo đà tăng dân số, cư dân trên các đảo phải làm thêm nhiều nhà sàn ra mặt biển để có thêm diện tích ở. Đối với Hòn Tre, tuy gần Rạch Giá, có vị trí tốt về giao thông thương mại, nhưng do đảo quá nhỏ nên mặt bằng xây dựng vẫn chật; phần lớn nhà cửa ở đây là nhà sàn.
Ở đảo, nhân dân sống tập trung dưới thung lũng, triền núi giáp mé biển, thường là những bãi cát quanh đảo trong một khúc eo của đảo. Như ở Lại Sơn chỉ có 3 cụm dân cư: Bãi Bấc, Bãi Nhà và Bãi Thiên Tuế. Nhân dân sống ven bờ mặt Bắc và mặt Nam, đây là những khúc eo, có mặt bằng rộng, trên cao có nguồn nước ngọt, có thể dẫn nước xuống toàn cụm dân cư. Là khúc eo nên nó như là một cái vịnh che chắn gió bão cho dân cư sống ở đây. Riêng Bãi Bàng, tuy là bãi cát đẹp, mặt bằng rộng có thể cất được nhiều nhà cửa, nhưng vì mặt này vào mùa gió hướng chính, cư dân không chịu được những cơn gió bão đi qua, vì vậy, ở bãi này, khi mùa Nam đến dân phải di chuyển qua các bãi khác.
Mặc dù diện tích chung của các đảo trong huyện tương đối lớn so với dân cư hiện có, nhưng đất để làm nhà ở thì rất hiếm. Đất thổ cư không nhiều; thường tập trung vào các cư dân sống lâu đời.
Trên quần đảo Nam Du, dân cư sống tập trung ở Hòn Ngang, Hòn Mấu… nhà cất theo eo, vịnh, ven hòn, mặt hướng ra biển, ở những bãi lài, mặt phẳng.
4. Về tâm lý - tình cảm
Như đã dẫn, Hòn Sơn Rái mãi tới thập niên 40 dân định cư mới đông (trên dưới 500 người), phần nhiều là người từ Cà Mau ra. Quần đảo Bà Lụa, Hải Tặc, Hòn Nghệ nhân dân có mặt vào những năm sau này, khá nhiều là cuối 1954, đầu năm 1955, gốc phần lớn cũng là người Cà Mau, sau này mới có thêm người gốc Hà Tiên.
Những người đầu tiên đến đảo, cất nhà theo ven chân đảo, dưới chân núi, trong eo, vịnh, mặt hướng ra biển, thường là mặt Đông, Đông Nam, Tây Nam, từ đó mà thành thói quen cho đời sau.
Ở vùng đảo này, thời kỳ trước nhân dân không có thói quen đóng cửa, gài cửa trước khi đi ngủ, nhà thường không có cửa, chốt gài bên trong, có chăng chỉ là những sợ dây buộc tượng trưng, vì trên đảo không có kẻ trộm.
Tính người dân vùng biển nên rất khí khái, “ăn to, nói lớn”, thẳng thắn, bộc trực, luôn sẵn lòng giúp đỡ người khác mà không kể công, không cần báo đáp, không mấy khi nói xấu người khác, gặp chuyện bất bình là giải quyết ngay, rất chuyên cần trong làm ăn; khi chết thì thổ táng, đầu hướng về núi (gác đầu lên núi = ngẩng cao đầu).
Quần đảo Nam Du, Lại Sơn, Hòn Tre... với đặc tính tự nhiên những đảo lớn che chở đảo nhỏ; đảo nhỏ nương tựa đảo lớn. Có lẽ do dân tứ xứ đến đây sinh cơ lập nghiệp nên buộc họ phải sống với nhau có nghĩa, có tình, giữ chữ tín, nghĩa khí làm trọng, ăn chia bất cứ thứ gì cũng đều sòng phẳng.
Khi đã hứa thì giữ "đúng lời", "ăn thì cho, buôn thì so”. Giữa vùng trời biển mênh mông này, người dân ở đây không đăm chiêu mà người nào cũng phóng khoáng, sôi nổi hướng về tương lai.
Cư dân ở đây yêu biển như người nông dân yêu đồng ruộng và hiểu biển tường tận còn hơn hiểu lòng mình. Họ biết chính xác vài ba ngày tới động tĩnh của biển như thế nào.
Đến đây khách phương xa được đón tiếp bằng tấm lòng chân thật; sẵn sàng đem ra đãi khách tất cả những gì mà họ có.
Nhân dân trên các đảo tác phong nhanh nhẹn, sống giản dị. Họ quan niệm khi ăn thì nhất định “phải ăn cho đầy đủ”, còn mặc thì không cầu kỳ, rất giản đơn, gọn gàng. (Đặc điểm này đến nay vẫn còn khá đậm nét).
5. Truyền thuyết về địa danh
Các đảo của Kiên Hải, trải bao năm tháng, nay đã trở thành những làng xã sầm uất trên biển, nhưng vẫn còn đọng trong ký ức nhân dân rất nhiều câu chuyện truyền ngôn, giai thoại, huyền thoại, dân ca, hò vè... chứng tỏ đời sống tinh thần của chủ nhân nơi đây rất phong phú.
Nam Du (quần đảo Nam Du), có thuyết cho rằng quần đảo này lúc đầu có tên là Nam Dự, có nghĩa là hòn đảo ở phương Nam, nhưng đến khi người Pháp vẽ bản đồ, phiên âm theo tiếng Pháp, chữ Dự mất râu, mất thanh nặng, biến thành Nam Du, và dân ta quen gọi là Nam Du từ đấy. Trên bản đồ thời Pháp, quần đảo này có tên là Poulo Dama, nhân dân địa phương quen gọi đó là quần đảo Củ Tron (lấy tên hòn lớn nhất trong nhóm đặt tên) hay còn gọi là quần đảo Nam Du.
Các địa danh Bãi Ngự, Giếng Vua (Giếng Gia Long), Củ Tron (An Sơn), Hòn Sơn Rái, Bãi Chén (Hòn Tre)... được nhân dân truyền khẩu, cho rằng những nơi này gắn liền với sự hiện diện của Chúa Nguyễn Ánh trên đường bôn tẩu trong cuộc tranh hùng với Tây Sơn.
Bãi Ngự, bãi mà Chúa Nguyễn Ánh đến nghỉ (ngự).
Giếng Vua, giếng nước do quan quân nhà Chúa phát hiện và đào để dùng.
Hòn Sơn Rái, tương truyền, lần đầu Chúa Nguyễn Ánh đến đây (1780), quân lính không còn gì để ăn, trong đêm Chúa nằm mộng thấy một vị thần hiện ra chỉ đường đi tìm lương thực...Sau khi tỉnh giấc, Chúa được nhiều con rái cá bắt cá dâng lên. Sau đó các dấu chân đi trên cát của đoàn quân nhà Chúa được các con rái cá xóa hết, nhằm bảo vệ nhà Chúa. Do đó, sau khi lên ngôi (1802), Vua Gia Long đặt tên hòn này là Hòn Sơn Rái để tưởng nhớ loài rái cá đã có công với Vua.
Cũng như nhiều địa danh khác, Hòn Sơn Rái còn nhiều truyền thuyết khác nói về sự hình thành tên gọi của đảo, hoặc là vì hình thù của hòn này giống hình con rái cá, hoặc là vì trên đảo có nhiều con rái cá sinh sống, hoặc là vì trên đảo từng mọc nhiều cây dầu, nhân dân lấy nhựa của cây dầu này gọi là dầu rái (mảnh hỏa) dùng để quét lên thân ghe xuồng chống thấm.
Có lẽ thuyết phục hơn hết là vì nơi đây ngày xưa có nhiều rái cá sinh sống.
Bãi Chén, truyền thuyết kể rằng, khi xưa quan quân Chúa Nguyễn Ánh trên đường trốn tránh quân Tây Sơn có dừng chân tại đây để ăn cơm và lấy nước ngọt, sau đó phải chạy vội nên đã bỏ lại rất nhiều chén, nhân dân trên đảo gọi nơi này là Bãi Chén - bãi có nhiều chén. Và cũng có thuyết cho rằng, những tảng đá ở bãi này, ngoài khơi nhìn vào giống như những cái chén úp nên dân gian gọi là Bãi Chén; hoặc là nơi đây khi xưa có thể có những thuyền buôn tránh bão ghé vào đây bỏ lại nhiều hàng hóa bị sóng biển làm hư hại trong đó có nhiều chén...
6. Truyền thuyết về cơ sở thờ tự
Truyền thuyết về Miếu Cô Năm
Ngày xưa, vào mùa khô, nhân dân vùng ven biển Rạch Giá thiếu nước ngọt uống. Có đôi vợ chồng nọ vì thương dân làng đói khát, nên tự nguyện đi tìm cho được dòng nước ngọt về giúp dân làng.
Đôi vợ chồng nọ tìm khắp nơi trong đất liền mà không thấy, họ dong buồm ra biển đến Hòn Tre và phát hiện có một con suối chảy róc rách, không ngừng tuôn ra dòng nước ngọt, một thứ nước quý mà bấy lâu nay họ khao khát. Hai vợ chồng uống xong vội vàng múc đầy xuồng nước rồi chèo về đất liền. Nhân dân Rạch Giá có được nước uống xiết bao vui mừng, nhưng hai vợ chồng nọ ngã gục vì kiệt sức. Nhân dân Rạch Giá tiếc thương vô hạn, có người đã lập miễu thờ, gọi là miếu Cô Năm.
Truyền thuyết về Nguyễn Trung Trực
Nhiều người cho rằng Hòn Tre là điểm tụ hội nghĩa quân Nguyễn Trung Trực, khi tấn công đồn Kiên Giang. Để tưởng nhớ ông, mặc dù không lập đình, nhưng nhiều gia đình ở Hòn Tre đã lập bàn thờ để thờ ông, tục thờ này đến nay vẫn còn phổ biến.
Sau khi bị hành quyết, Nguyễn Trung Trực thành thần, vào một đêm nọ, ông đột nhập đồn Kiên Giang, hạ sát bảy tám chục tên giặc. Bọn Pháp sống sót tỉnh dậy, đuổi theo, ra tới bờ biển thì đã thấy ông ngồi trên mình ngựa lướt sóng như bay hướng thẳng về Hòn Tre.
Chúng bắn theo, thì đạn vừa ra khỏi súng liền bay ngược lại, xuyên thẳng vào ngực chúng. Trên bờ biển Rạch Giá, thây giặc chất ngổn ngang, kẻ thù bạt vía kinh hồn.
Nhân dân Rạch Giá kể rằng ở chỗ Nguyễn Trung Trực tử tiết, đêm đêm vẫn vang tiếng kèn thúc quân của ông, tiếng binh sĩ hò reo, tiếng va chạm của vũ khí nghe nhức tai. Bọn Pháp ở quanh đấy không bao giờ có được giấc ngủ yên lành. Tên Chủ tỉnh người Pháp phải dùng dây xích rào khu vực ấy lại mới tạm yên.
Nhân dân sống ở các hòn đảo đến ngày nay vẫn còn tin tưởng sự linh ứng của ông, mỗi khi ra biển, bà con thường cầu xin ông phù hộ.
Trên quần đảo Nam Du, số người ở các hòn rất ít. Đông nhất là Hòn Củ Tron, Hòn Ngang, Hòn Mấu, còn các Hòn Dầu, Hòn Đụng, Hòn Bờ Đập thì rất ít, Hòn Nồm (chỉ có một gia đình). Do đó, việc thờ cúng thần linh cũng hạn chế. Hòn nào ít người ở thì lập miếu thờ thổ địa nơi đông thì thờ bà Chúa Xứ (bà Chúa Hòn), thờ Ông (cá Ông), thờ Phật. Việc thờ và cúng lớn chỉ có ở Hòn Củ Tron, Hòn Ngang và Hòn Mấu; Hòn Tre: Chùa Cô Lan, Tịnh xá Phụng Hoàng, Đình Ông Nam Hải được thành lập vào năm 2006 do ngư dân thờ cá Ông trôi dạt vào Hòn Tre.
Hòn Tre, có Sơn linh động, miếu Bà Cậu, miếu Bà Chúa Thượng (Bà Chúa Hòn), dinh Ông Nam Hải, chùa Cô Lan, chùa Phước Hải (Tịnh xá). Ở đây không có hệ thống tôn giáo đúng nghĩa, chủ yếu là tín ngưỡng dân gian.
Chùa Cô Lan là ngôi chùa cổ, tên chữ là "Thiên Thai Cổ Tự" thờ Phật, tọa lạc tại Ấp III, xã Hòn Tre, đây là ngôi chùa thờ Phật có sớm nhất ở hòn đảo này, dân gian thường gọi là chùa Cô Lan vì có một nữ tu tên Lan ở đây chăm sóc, thờ phụng. Vào ngày rằm tháng Giêng hàng năm, dân trên hòn đến đây làm lễ dâng hương, cúng Phật.
Miếu bà Cố Chủ ở Bãi Nhà (Hòn Sơn). Ngôi miếu thờ một người phụ nữ có tên là Tăng Thị Phú, là người có công khai khẩn, lập ấp ở đảo. Bà gốc ở đâu không ai biết chính xác. Tương truyền bà người gốc ở Cà Mau, rất giàu có, ra đây dựng nghiệp, dân sống trên đảo này đều do bà bảo bọc. Sau khi bà thác, bà hiển thánh, rất linh ứng, ai gặp “nạn kiếp” van vái bà, đều được "tai qua nạn khỏi". Kẻ lầm lỡ khẩn cầu bà, đều được thứ tha; ngư dân đi biển muốn được nhiều cá xin bà, bà sẵn lòng cho; ai có bệnh hoạn ốm đau, cầu xin đều lành bệnh. Do công đức của bà, nhân dân trên đảo lập miếu thờ và việc thờ cúng được truyền qua nhiều đời. Hàng năm, cứ vào ngày mùng 9 tháng 9 âm lịch, hàng ngàn người dân trên các đảo và ngư dân vùng Miệt Thứ tập trung về đây làm lễ dâng hương - đăng - hoa - quả - nhạc lễ - rượu - thịt cúng bà trong 3 ngày liền, rất trang nghiêm.
Đình thần Nguyễn Trung Trực, tại ấp Bãi Nhà (Lại Sơn), phối tự cùng Thành Hoàng bổn cảnh. Đình có sắc phong của vua Bảo Đại. Hàng năm vào ngày rằm tháng Giêng, có lễ cúng lớn, kéo dài 3 ngày đêm. Nhân dân trên đảo tham dự rất đông, dân đi hành hương ngày càng nhiều; có cả nhân dân ở trong đất liền ra. Phần lễ, có hai nghi thức: một là nghi lễ thần Thành Hoàng bổn cảnh, hai là nghi lễ thần Nguyễn Trung Trực; phần hội có diễn các trò chơi dân gian và ca hát quần chúng…
Ở Hòn Sơn Rái còn lưu truyền về những nghĩa quân Nguyễn Trung Trực, khi nghĩa quân tan rã, người có điều kiện thì vào đất liền để tiếp tục kháng chiến, người không có điều kiện thì ở lại các đảo tìm kế sinh nhai, chờ cơ hội… Trong số đó có nhiều người là dân tại Hòn có ông Lê Văn Năm, là nghĩa quân của Nguyễn Trung Trực, người quê Cao Lãnh, tham gia nghĩa quân từ khi ông Nguyễn về Hòn Chông lập căn cứ ở Ba Trại.
Sau khi Nguyễn Trung Trực bị bắt và bị hành hình, ông Năm đành ở lại đây sinh sống. Lúc đầu sống tạm bằng nghề thầy thuốc chữa bệnh cho dân, lâu dần dân tình quý mến, ông không thể rời xa họ được, ông lấy vợ, sinh con và an cư ở đây. Khi ông qua đời, để tưởng nhớ ơn đức của người xưa và vị anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực, người thủ lĩnh của cha mình, con ông là Lê Văn Lợi cùng bà con ở hòn đảo này đã dựng lên một ngôi đền để thờ cúng.
Tương truyền cũng tại đây, trên đường rút ra Phú Quốc, nghĩa quân Nguyễn Trung Trực có ghé qua Hòn Sơn Rái; bà Tăng Thị Phú và nhân dân trên đảo đã tiếp tế lương thực, thực phẩm và nước uống cho nghĩa quân…
7. Danh lam thắng cảnh
Kiên Hải có rất nhiều danh lam, thắng cảnh mang đặc sắc, đậm nét của vùng biển đảo Tây Nam. Hòn Tre là một hòn đảo đầy tiềm năng về du lịch. Đảo chỉ cách thành phố Rạch Giá khoảng 16 hải lí, chiều dài độ ba cây số rưỡi; chỗ rộng nhất chưa tới hai cây số, nên đi bộ một vòng quanh đảo cũng không tốn nhiều thời gian. Hơn nữa được dạo chơi dưới tán rừng cây trái sum suê, hít thở không khí trong lành của biển cả, cũng là một cái thú tao nhã. Rìa Tây, Hòn Tre còn mang nét hoang sơ.
“Hòn Tre có đá Bà Già
Có Sơn Linh động, có chùa Cô Lan”.
Núi Bà Già thật ra chỉ là một hòn đá trên bờ biển tọa lạc tại Ấp 2, xã Hòn Tre, nằm giữa quần thể những gành đá dưới chân hòn. Hòn đá này có hình dạng giống như một bà già, lưng còng, mặt hướng về Rạch Giá. Nơi đây câu cá, ngắm cảnh trăng đêm rất tuyệt.
Bãi Chén là địa danh nổi tiếng của xã Hòn Tre, là bãi tắm còn hoang sơ.
Ngoài ra, Hòn Tre còn các địa danh như: Hòn Non, Động Dừa, Đường Đá Chuông, Đường Sá Lách, Suối Ông Tà, Mũi Giết, Đá Bia, Đá Tàu, Đầu Rùa, Đuôi Hà Bá... Mỗi địa danh kèm theo một giai thoại, hoặc một truyền thuyết nào đó rất sống động và gần gũi. Đặc biệt, ở đây có nhiều con suối như Suối Lớn, Suối Nhỏ, Suối Vàng… những con suối cho nước ngọt quanh năm.
Đặc biệt, trên núi Hòn Tre có một cái hang được gọi là hang người cổ, trong hang có những di vật như chum vại và vật dụng của người xưa. Có thể đây là một địa chỉ du lịch thám hiểm lý thú.
Hòn Sơn Rái, xã Lại Sơn, có các bãi tắm đẹp như: Bãi Thiên Tuế, Bãi Bàng, Bãi Giếng, Bãi Bấc nước biển trong suốt, nhìn thấy đáy cát ở độ sâu vài ba mươi sải. Bãi Bấc nằm về phía Tây cũng là một bãi tắm thú vị. Bờ biển bao quanh hòn có nhiều khối đá tròn, có khúc thì lởm chởm, nhiều đoạn có hàng dừa xanh cao vút, nghiêng mình soi bóng trên mặt biển.
Bãi Nhà là trung tâm của xã Lại Sơn. Ở đây có nhiều gành đá nối tiếp nhau. Có một gành đá lớn giống như mặt bàn gọi là “Đá Bàn”. Phía trên là triền núi cao, cây rừng phủ kín. Lối đi lên đỉnh rất dốc, dân địa phương gọi là đỉnh “Ma Thiên Lãnh” rất khó trèo, trên cao nhiều hang động sâu và rất đẹp, trên chót vót có một tấm bia chủ quyền quốc gia, trước đây do chính quyền Sài Gòn cắm. Không khí ở Hòn Sơn Rái trong lành, mát mẻ, cảnh vật yên tĩnh. Từ đây có thể nhìn thấy Hòn Nghệ, quần đảo Nam Du thấp thoáng.
Phần lớn diện tích đảo được phủ bằng đá hoa cương bị phong hóa mạnh, trên có rừng tạp xanh tốt. Đi từ Rạch Giá, Hòn Tre ra đảo, trước hết ta gặp Bãi Bấc với hàng trăm căn nhà trên bãi phẳng rộng, sát chân núi.
Từ mí nước tới lưng chừng núi là một rừng dừa xanh tốt cho ta cảm tưởng đây là đảo dừa. Tàu lượn trên Bãi Bấc, luồn lách những rạn đá đưa ta tới phía Nam đảo. Khi tàu vừa nhô ra khỏi vách núi chắn ngang thì một phong cảnh cực kỳ ngoạn mục hiện ra nước biển xanh, bãi cát vàng hình vòng cung ôm lấy biển.
Những căn nhà 1 - 2 tầng lầu phía chân núi, mái ngói đỏ, mái bằng, tường quét vôi trắng, vôi màu. Quần thể này dựa lưng vào dải núi phía sau màu xanh lục tạo nên sự hài hòa, vững chắc. Trong quần thể những hòn đảo quần tụ trong vịnh Thái Lan, Hòn Sơn Rái là hòn có sự hài hòa giữa con người và thiên nhiên, thể hiện sức sống và sự trù phú của đảo.
Nam Du: Phía cuối cầu cảng là Nhà bia tưởng niệm, ghi lại những tổn thất nặng nề về người và của trong cơn bão số 5 (1997).
Quần đảo Nam Du được Nhà văn Sơn Nam nhắc tới nhiều trong tập truyện ngắn “Hương rừng Cà Mau”. Các nhân vật của ông, nếu là người Củ Tron chính gốc, “thì đều mang dáng vẻ và tính cách dung dị đến mức độ trở nên huyền hoặc”. Đây là vùng biển khá yên tĩnh. Đứng trên Hòn Củ Tron (thuộc xã An Sơn), đảo lớn nhất trong quần đảo Nam Du, nhìn cảnh quan chung quanh, nhất là lúc bình minh hay hoàng hôn, sẽ thấy sắc trời rực rỡ phản chiếu với sắc nước trong xanh. Các đảo nhỏ bao quanh tạo thành một vòng cung Bắc - Đông - Nam, mỗi đảo một vẻ riêng. Đảo Củ Tron có một đường rộng chạy thẳng lên núi. Là một đảo nhỏ, Củ Tron không có vườn tược sum suê, cây trái bốn mùa, nhưng lại có nhiều vườn dừa cho trái ngọt quanh năm.
Bờ biển của đảo uốn khúc, nhiều hòn gần nhau, nương tựa, che chắn, tạo thành vùng biển êm, an toàn cho các ghe tàu neo đậu khi gặp giông bão.
Bãi Ngự có bãi cát vàng, nằm ẩn dưới bóng dừa xanh mướt, nước biển trong xanh, ngoài xa là Hòn Hàn, Hòn Mốc, Hòn Nhàn xen kẽ nhau, tạo thế khép mờ kỳ ảo. Người ở đảo sống chan hòa, rất mến khách. Khi khách tới thăm họ mang những đặc sản của đảo ra thết đãi và sau đó sẵn sàng cất lên tiếng hát “Hò thẻ mực”, một làn điệu dân ca để cùng vui với khách.
Đi trên tàu biển nhìn lên đảo Hòn Nghệ, ta gặp một dải đá vôi, giống như bức thành đá xám trắng trước mặt. Chân tường bị sóng ăn mòn từ hơn 2.000 năm trước, tạo thành một mái vòm cao, hình cánh quạt. Mái vòm biến thành hộp cộng hưởng lớn, khuếch đại tiếng sóng, tiếng gió, tạo thành âm thanh lạ lùng. Ẩn hiện phía trong là ngôi chùa thờ Phật. Phong cảnh thật thanh bình, êm ả…
Chương III
SỰ THAY ĐỔI ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH
QUA CÁC THỜI KỲ
Các đơn vị hành chánh thuộc địa bàn Kiên Hải trải qua nhiều lần thay đổi do việc tách nhập, thành lập mới các đơn vị hành chánh từ thôn xã đến tổng, huyện, hạt (tỉnh), trấn.
Từ khi thành lập trấn Hà Tiên, các đảo và quần đảo thuộc huyện Kiên Hải ngày nay không được xác định là một đơn vị hành chánh vì dân cư trên các đảo quá thưa thớt, chỉ xác định được là thuộc trấn Hà Tiên. Khi thành lập huyện Kiên Giang (1757) thì các đảo này thuộc huyện Kiên Giang, trấn Hà Tiên. Chỉ có Hòn Sơn Rái nhân dân ở khá đông nên vào khoảng năm 1819 đã hình thành một thôn có tên gọi là San Du (Sơn Du).
Đến năm 1836, khi triều đình nhà Nguyễn lập địa bạ thì chúng ta thấy có tên Lại Sơn thôn thuộc tổng Kiên Định, huyện Kiên Giang, tỉnh Hà Tiên. Còn các hòn khác vẫn chưa thành lập các đơn vị hành chánh.
Năm 1957 Lại Sơn là một xã thuộc quận Kiên An (An Biên ngày nay). Năm 1966 -1975 xã Lại Sơn thuộc quận Kiên Thành, Kiên Giang. Phía chánh quyền cách mạng, từ năm 1945 - 1975 vẫn gọi là xã Lại Sơn, nhưng thuộc An Biên.
Có thời kỳ, xã Lại Sơn bao gồm quần đảo Nam Du, có lúc có cả Hòn Tre (năm 1966), trong đó Hòn Sơn Rái được xem là trung tâm của xã. Sau ngày giải phóng, xã Lại Sơn vẫn thuộc huyện An Biên, từ năm 1983 thuộc huyện Kiên Hải, nhưng đơn vị hành chánh chỉ gói gọn trong một hòn, đó là Hòn Sơn Rái. Năm 2005, tách xã An Sơn làm 2 xã: An Sơn và Nam Du. Xã An Sơn gồm các đảo: Hòn Củ Tron, Ba Hòn Nồm, Hòn Nhạn, Hòn Tre, Hòn Dâm. Xã Nam Du gồm các đảo: Hòn Ngang, Hòn Mấu, Hòn Dầu, Hai Hòn Lò, Hai Hòn Bờ Đạp, Hòn Bỏ Áo, Hòn Mốc, Hai Hòn Đụn.
Các đảo trong quần đảo Nam Du rất ít dân, chỉ có hòn Củ Tron có người ở nên không thành lập đơn vị hành chánh.
Suốt thời kỳ chống Pháp quần đảo này vẫn thuộc quyền quản lý của Việt Minh, nhưng vẫn chưa xác lập đơn vị hành chánh.
Năm 1962, chánh quyền Sài Gòn chính thức gọi quần đảo Nam Du là ấp Củ Tron, thuộc xã Lại Sơn, quận Kiên An. Từ năm 1983 trở thành xã An Sơn thuộc huyện Kiên Hải. Về mặt hành chánh của chính quyền cách mạng từ năm 1954 cho đến năm 1983 vẫn xem quần đảo Nam Du thuộc xã Lại Sơn.
Hòn Tre là một hòn gần đất liền nhất, nhưng dân cư cũng còn thưa thớt. Vào khoảng năm 1940, khi điền chủ người Pháp tên là Le Nestour ra lập đồn điền thì mới có dân phu; sau trở thành cư dân địa phương. Từ năm 1945 đến năm 1956 là một ấp thuộc xã Đông Thái, huyện An Biên. Năm 1957, là một ấp trực thuộc xã Vĩnh Thanh Vân, tổng Kiên Hảo, huyện Kiên Thành. Năm 1961, chính quyền cách mạng vẫn gọi là ấp Hòn Tre, nhưng giao về thị xã Rạch Giá chỉ đạo. Năm 1962, chính quyền Sài Gòn lập ấp chiến lược, Hòn Tre mang tên ấp Phú Xuân, thuộc xã Vĩnh Thanh Vân, thị xã Rạch Giá. Năm 1966, ấp Hòn Tre thuộc xã Lại Sơn. Năm 1975, sau giải phóng Hòn Tre vẫn thuộc xã Lại Sơn, huyện An Biên.
Năm 1983, huyện Kiên Hải được thành lập có địa giới hành chính khá rộng, bao gồm cả quần đảo Nam Du, Hòn Sơn Rái, quần đảo Bà Lụa, Hòn Nghệ và quần đảo Hải Tặc. Năm 1985 giao quần đảo Hải Tặc (xã Tiên Hải) cho huyện Hà Tiên, năm 2000 giao quần đảo Bà Lụa và Hòn Nghệ cho huyện Kiên Lương.
(Trước khi huyện Kiên Hải được thành lập, các đảo thuộc địa giới Kiên Hải hiện nay chỉ có quần đảo Nam Du, hòn Sơn Rái và Hòn Tre. Về đơn vị hành chánh thì chỉ có xã Lại Sơn. Do đó trong quyển sách này, tên Kiên Hải được hiểu là địa bàn gồm các đảo nêu trên. Còn tên gọi hành chánh trước khi thành lập huyện thì sử dụng tên xã Lại Sơn, ấp Củ Tron và ấp Hòn Tre).
Chương IV
KIÊN HẢI DƯỚI THỜI PHONG KIẾN - THỰC DÂN
Trên nhiều hòn thuộc Kiên Hải hiện nay, cư dân đã có mặt từ rất sớm. Nhiều vật đã được tìm thấy ở Hòn Nghệ như chum đựng nước, nồi nấu cơm, sọ người, các vật dụng sinh hoạt khác…
Trong một vài hang động nhỏ trên Hòn Tre người ta tìm thấy rìu đá và một vài dụng cụ lao động của người tiền sử.
Trong Gia Định thành thông chí có đoạn chép về việc này tại đảo Hòn Tre như sau: “Bên cạnh có cái động, miệng rộng 2 thước, trong rộng hơn 10 thước, có ánh sáng mặt trời chiếu vào, vật nhỏ như cây kim sợi chỉ cũng trông thấy được. Trong có cái vò (chum) xưa, bề ngang chỗ lưng độ 3 thước, không biết của đời nào sót lại, và khi xưa do lối nào đem vào đây được…”
Trong những năm 70 của thế kỷ 18, trên đường bôn tẩu, Chúa Nguyễn Ánh đã có nhiều lần đến trú ở Hòn Sơn Rái, Củ Tron...
Vào đầu thế kỷ 19, chỉ một số đảo thuộc huyện Kiên Hải hiện nay có dân cư trú, nhưng chỉ tập trung theo mùa đánh bắt hải sản, khai thác yến sào… Các đảo chưa thành thôn ấp, duy chỉ có xã Lại Sơn hình thành một thôn với tên gọi ban đầu là San Du thôn. Sau mới gọi là Lại Sơn thôn do ông Nguyễn Văn Hồ làm Trưởng thôn; dân cư rất ít, độ vài ba chục người.
Lúc này ở đảo chỉ toàn là rừng, khi nhà Nguyễn lập địa bạ Hà Tiên thì Lại Sơn thôn chưa xác lập được bộ sổ vì đất đai khai thác được không đáng kể.
Lâu dần hòn đảo này thu hút nhiều cư dân ở vùng Cà Mau, Miệt Thứ… ra đây định cư. Trên hòn Sơn Rái có nhiều cây dầu được nhân dân “mổ miệng” (đục vào thân cây thành hốc) để hứng dầu trét ghe xuồng được gọi là dầu rái. Vào đầu triều Nguyễn có định lệ nộp loại dầu này và nhân dân được miễn thuế.
Giữa thế kỷ thứ XVI, tại quần đảo Nam Du đã xảy ra trận ác chiến giữa đội tàu người Hà Lan và người Hải Nam (Trung Quốc - dân địa phương có người gọi là người Chệt) tranh nhau số huyền phách khai thác được chuyển từ Phú Quốc về. Trong trận này có nhiều người “Chệt” chết không được chôn cất, thi thể của họ đều bị bão biển cuốn trôi, nhiều xác trôi tấp vào bãi này, từ đó thành danh Bãi Chệt (dẫn theo sách Vịnh Thái Lan của Sơn Hồng Đức). Đến năm 1887, người Pháp bắt đầu thăm dò quần đảo Nam Du. Khi ấy quần đảo này chưa có dân, thỉnh thoảng có vài thương thuyền người Trung Hoa, Mã Lai... ghé qua để tránh bão, sau đó dong thuyền đi tiếp, chứ không ai ở lâu.
Chương V
KIÊN HẢI TRONG NHỮNG NĂM
KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP 1945-1954
Ngày xưa, tại mũi Hòn Tre có một rừng tre rất dầy. Nhân dân đốn tre, dùng tre chẻ ra làm nan đan nò, xây rọ, bắt cá gúng, một cái nò có thể đổ một đêm trên 3 tấn cá gúng. Nhân dân An Biên hay ra đây đốn tre chở về đất liền.
Năm 1930, Hòn Tre chỉ có 3 nóc nhà, đến năm 1940 ông Le Nestour là chủ điền người Pháp, mộ phu thêm 10 người ra đây khai hoang lập đồn điền. Công việc ban đầu là cưa cây rừng, phát quang, làm rẫy, trồng dừa.
Dân mỗi lúc đông thêm, có người ra đây để làm mướn cho chủ điền này, số ít lại tự làm cỏ phát quang, lập vườn, làm rẫy, trồng xoài, mãng cầu…lập điền sản riêng.
Theo phong cách Tây, ông Le Nestour cho đắp trước sân nhà một mô hình bằng xi măng, mô phỏng hình dạng của đảo để làm thú tiêu khiển trong lúc rảnh rỗi. (Đây là di tích duy nhất còn sót lại, ghi dấu sự có mặt của ông). Công việc khai hoang lập đồn điền của ông diễn ra chưa đầy 5 năm thì chấm dứt do Cách mạng tháng Tám thành công. Le Nestour cùng gia đình đi nơi khác, toàn bộ đất đai trên hòn thuộc về nhân dân.
Năm 1947, thực hiện chủ trương của Đảng: “ruộng đất của điền chủ phải được chia cho dân”. Đồng chí Sáu Bảo là cán bộ trong Ban Thương chính Việt Minh theo lệnh của Mặt trận Việt Minh huyện An Biên đến đảo Hòn Tre phân phối đất đai cho nhân dân trên đảo.
Một gia đình được chia nguyên canh là 100 gốc dừa, còn người sáo canh mới ra đảo chia ít hơn 50-70 gốc (dừa do ông Le Nestour trồng lúc trước). Về thuế, hầu hết là được miễn, vì chính quyền Việt Minh khuyến khích trồng tỉa, tăng gia sản xuất để bồi dưỡng sức dân là chính, rất ít khi thu thuế.
Phương tiện đi từ đất liền ra các đảo và ngược lại thường là thuyền buồm; từ Rạch Giá ra tới đảo Hòn Tre phải mất nửa ngày nếu thời tiết tốt. Nếu gặp giông gió thì rất khó đi.
Những năm 1937, 1938 Nam Du đã có 1, 2 gia đình sinh sống. Đến những năm 1945, nhân dân ở vùng Miệt Thứ, Cà Mau mới ra đây định cư. Ban đầu họ sống bằng nghề khai thác gỗ lạt, đánh bắt hải sản quanh đảo, chủ yếu là thẻ mực, câu cá... vì những nghề này ít tốn chi phí.
Vào những năm 1945, 1946 nhân dân trên các hòn đi biển còn bằng ghe thuyền nhỏ, chủ yếu là chèo tay, về sau mới có một ít ghe buồm đi đánh bắt ngoài xa. Người lái ghe buồm phải giỏi, có kinh nghiệm “xem mây đoán gió” một tay cầm lái để giữ hướng, một tay giữ dây lèo cho buồm căng gió, một người khác trèo lên cột cao nhìn ra xa để tìm đàn cá (lưới bao).
1. Chi bộ Đảng Cộng sản ở xã Lại Sơn ra đời
Trước năm 1945, mỗi quận của tỉnh Rạch Giá có một quận trưởng người Pháp, mỗi tổng có 1 viên cai tổng, làng có ban hội tề, bộ máy này thực dân Pháp tuyển chọn trong số các địa chủ, người giàu có trong địa phương để làm công cụ thực hiện các chủ trương của chế độ thống trị như bắt “xâu” (sưu), thu thuế...
Ở địa bàn biển đảo lúc này, tuy chúng không kiểm soát và thống trị toàn diện, nhưng bộ máy tề xã vẫn được thành lập ở xã Lại Sơn.
Ở Lại Sơn, Ban hội tề do Pháp lập ra gồm có: Hương cả là Nguyễn Văn Chạy; Hương chủ là ông Nguyễn Văn Tranh (chủ Tranh); Hương quản là Hàng Phước Dương; Hương giáo là Lê Văn Lợi; Xã trưởng là Lê Văn Hòa. Các hương chức hội tề này là những người giàu có ở xã, đa số được dân thương (vì dân ở đây phần nhiều là con cháu của các ông), chỉ có con và đám cặp rằng của Hương chủ Tranh là ác độc nhất. Ai đi ngang qua nhà hắn mà ngó vô, lập tức bị cặp rằng và hai đứa con của ông là Nguyễn Văn Thiết và Nguyễn Văn Thao (hai con nghiện á phiện) mắng chửi, thậm chí còn hành hung. Nhân dân ở đây rất ghét chúng.
Sau khởi nghĩa Nam kỳ (1940), thực dân Pháp tiến hành khủng bố trắng khắp nơi, cán bộ ta bị bắt và bị giết ngày càng nhiều. Để tránh sự truy sát của giặc, nhiều đồng chí cán bộ đảng viên của Đảng phải chuyển vùng hoạt động, một số đồng chí từ các tỉnh, thành ra đây đã gặp nhau tổ chức hoạt động.
Cách mạng Tháng Tám thành công, chính quyền nhân dân quận An Biên được thành lập. Ban hội tề làng Lại Sơn bị giải tán, chính quyền nhân dân cách mạng làng Lại Sơn được thành lập, do Huỳnh Ngọc Dàng làm Chủ tịch; Lâm Minh Hương, Phó Chủ tịch và các thành viên khác.
Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, chi bộ Đảng ở Lại Sơn cũng được hình thành. Đồng chí Trần Văn Thương, được cử làm Bí thư; đồng chí Nguyễn Văn Châu, Chi ủy viên, Trưởng Công an xã; đồng chí Hồ Thị Bồng, Đoàn trưởng Phụ nữ cứu quốc; đồng chí Hàng Văn Ri, Đoàn trưởng Thanh niên cứu quốc.
Chi bộ hoạt động chủ yếu ở khu vực Hòn Lại Sơn, Nam Du, có lúc cả Phú Quốc và các vùng phụ cận như Vân Khánh (An Minh), Đông Thái (An Biên). Các đồng chí đã xây dựng nhiều cơ sở trong nhân dân, tổ chức sinh hoạt tình hình trong nước và trên thế giới, phong trào đoàn kết giúp đỡ nhau và đấu tranh cải thiện đời sống.
Hoạt động của chi bộ có ảnh hưởng sâu rộng trong nhân dân, làm cho nhân dân tin vào Việt Minh, hiểu biết thêm về tình hình thế giới và các phong trào trong nước. Nhân dân thường đến gặp đồng chí Trần Văn Thương để nghe đồng chí diễn giải.
2. Sự kiện thành lập “Bộ đội Phú Quốc” ở Lại Sơn
Ở Phú Quốc, đêm 14-8-1946 (17-7 Âm lịch), đồng chí Huỳnh Thành Nghĩa (Ba Nghĩa) cùng một số đồng chí đứng ra tổ chức đánh khu hành chính của thực dân Pháp tại Phú Quốc. Chuẩn bị hành động thì bị lộ, địch báo động đối phó, quân ta phải rút lui. Sáng hôm sau, tên Trầm dẫn lính đi bắt các đồng chí: Ba Nghĩa, Tư Lượng, Tư Tên, Ba Hiệp, Ba Bùa, Hai Moon…
Sau gần nửa tháng giam giữ tại Phú Quốc, ngày 26-8-1946, địch cử Cai Ngự áp giải những người bị bắt đưa về Rạch Giá 5. Trên đường đi, các đồng chí đánh lừa bọn áp giải, yêu cầu mở cùm với lý do là ở giữa biển làm sao bỏ trốn được. Lợi dụng sơ hở của bọn áp giải, các đồng chí đảng viên và cán bộ nòng cốt đồng loạt đẩy bọn chúng xuống biển, cướp ghe, chạy vào Hòn Sơn Rái.
Từ Bãi Bấc các đồng chí chuyển sang Bãi Nhà. Trong suốt thời gian ở đây, các đồng chí đã được chi bộ Đảng và nhân dân Lại Sơn hết lòng đùm bọc, cưu mang giúp đỡ. Các đồng chí đã củng cố, chấn chỉnh lại đội ngũ. Cũng trong dịp này, các đồng chí đã quyết định thành lập lực lượng vũ trang của Phú Quốc với 4 súng mút, 40 viên đạn, quân số là 20 người kể cả chỉ huy (số vũ khí này tịch thu từ tay bọn áp giải tù). Đơn vị do đồng chí Huỳnh Thành Nghĩa lãnh đạo. Lực lượng vũ trang của Phú Quốc chính thức ra đời.
Ngày 14-9-1946, được sự giúp đỡ của nhân dân và các đồng chí trong chi bộ Lại Sơn, “Bộ đội Phú Quốc” đã tập hợp được 20 cán bộ, chiến sĩ, 8 khẩu súng mút mít và một số súng, lựu đạn giả làm bằng gỗ (để dọa địch) dưới sự chỉ huy của đồng chí Huỳnh Thành Nghĩa, từ Hòn Sơn Rái, vượt biển trở về Phú Quốc, tổ chức đánh hãng Cây Dừa (đồn điền của Pháp ở Cây Dừa). Đây là trận ra quân đầu tiên, có ý nghĩa củng cố lòng tin của nhân dân Phú Quốc, làm cho giặc Pháp phải một phen khiếp sợ.
Sau trận đánh này, “Bộ đội Phú Quốc” vẫn thường lui tới Hòn Sơn Rái để chỉnh quân, bổ sung quân lực…
Năm 1948, ở Hòn Sơn Rái, phong trào hoạt động ủng hộ kháng chiến do đồng chí Tám Đờn Tranh, Sáu Bảo, Hai Cần lãnh đạo dấy lên mạnh mẽ. Phong trào mỗi lúc lên cao, nhân dân đã ủng hộ cho Việt Minh rất nhiều vàng bạc để “mua vũ khí đánh Tây”.
Cuối năm 1948, sau khi đầu hàng Pháp, Lâm Quang Phòng đi tàu ra Lại Sơn để tuần tra và truy bắt cán bộ ta nhằm lập công với Pháp. Tên Ba Hòe, Nho là thuộc hạ của hắn, được hắn dùng làm gián điệp chỉ điểm. Theo lệnh của Lâm Quang Phòng, tên Hòe, Nho bí mật xuống tàu Pháp chỉ cho lính Pháp biết nơi hoạt động của cán bộ ta. Sau khi được mật báo, bọn lính lùng sục khắp nơi, cho pháo lớn, súng nhỏ bắn xối xả lên núi liên tục mấy ngày liền. Ở dưới chân núi, trong khu dân cư, chúng lùng sục từng nhà, chúng đi đến đâu đều có hai tên mật báo này theo để nhận mặt cán bộ ta.
Do mất cảnh giác, bị mật thám chỉ điểm, một số cán bộ của ta đã rơi vào tay giặc. Các đồng chí Nguyễn Thị Nang, Thư ký Ban Chấp hành phụ nữ xã; Hàng Văn Ri, Đoàn trưởng Thanh niên xã; Nguyễn Văn Bích, Trần Văn Hoa (Hoa Ghẻ), Huỳnh Văn Giảng, Huỳnh Văn Tiền (Ba Ca Lam) đều bị bắt. Giặc Pháp cho áp giải về Campốt (Kampuchia), sau đó đưa về Châu Đốc biệt giam. Sau 2 năm, do không khai thác được gì chúng đành phải thả tất cả.
Năm 1953, một chiếc tàu của Pháp ghé vào Hòn Tre, có một tên Trung úy người Pháp đi lạc trong rừng bị ông Nguyễn Văn Hai lúc đó là Công an xung phong của Việt Minh bắt được (từ đó mà thành danh Hai Tây). Việc “bắt sống Tây” đã gây được tiếng vang lớn trong cán bộ, nhân dân khắp nơi.
Trong những năm 1949, 1954 giặc Pháp mở nhiều cuộc càn lớn, bắn phá vào các hòn, tập trung nhất là Hòn Sơn Rái; có lúc, có cả máy bay yểm trợ. Nhưng các hòn lúc bấy giờ đa số là rừng núi, nhiều hang sâu, là vùng ta làm chủ, nên giặc không thể làm gì được.
Thực dân không kiểm soát được quần đảo Nam Du, vì đảo xa, ít dân cư, hoa lợi theo họ thì chưa có gì. Nhưng đối với những chiến sĩ cách mạng thì vùng đảo này là nơi rất an toàn, là trạm dừng chân lý tưởng khi hành quân hoặc đổi vùng hoạt động từ Phú Quốc, An Biên, Hà Tiên đi các tỉnh khác...
Với chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, thực dân Pháp buộc phải ký Hiệp định Genève (20/7/1954) công nhận độc lập chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam. Hòa bình được lập lại ở Việt Nam, Campuchia, Lào. Việt Nam tạm thời chia thành 2 miền, miền Bắc hoàn toàn giải phóng, miền Nam tạm thời dưới quyền quản lý của Liên hiệp Pháp; vĩ tuyến 17 là giới tuyến quân sự tạm thời giữa 2 miền.
Tin thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Hiệp định Genève được ký kết, nhanh chóng loan về, nhân dân các đảo vui mừng tột độ, tạm dừng lao động sản xuất, đánh bắt để tập trung hội họp sinh hoạt về thắng lợi, liên hoan mít tinh mừng thắng lợi. Là vùng giải phóng nhiều năm nhân dân có trình độ hiểu biết, nhạy cảm với thời sự nên không khí sôi động rộn rịp suốt ngày đêm.
Hiệp định có hiệu lực, các cơ quan, đơn vị của Nam bộ, khu 9, các tỉnh đều tập trung về Chắc Băng (Vĩnh Thuận) để chuẩn bị tập kết ra miền Bắc theo qui định.
Tại An Biên, các cơ quan, bộ đội kể cả quân tình nguyện Việt Nam ở Cao Miên về đóng trên kinh xáng Xẻo Rô - Cán Gáo (từ Thứ Tám đến Thứ Mười Một, Cán Gáo). Nhân dân trên các đảo huy động phương tiện của mình chuyên chở quân tình nguyện của Việt Nam tại Campuchia, bộ đội của ta ở Phú Quốc về nơi tập kết (bến Chắc Băng -Vĩnh Thuận) một cách an toàn.
Tại Lại Sơn, các đồng chí Trần Văn Thương, Bí thư Chi bộ; Nguyễn Văn Châu, Trưởng Công an xã, Năm Khanh; Hồ Thị Bồng, Chi ủy viên; Huỳnh Văn Vàng, Chi ủy viên, Chủ tịch xã cùng các đảng viên: Đinh Văn Di, Nguyễn Văn Bích, Bùi Văn Lễ, Bùi Văn Tý, Nguyễn Thị Nang, Trần Khải Hòa, Phan Văn Khôn (Mười Khôn) và Bùi Văn Chín được lệnh ở lại chỉ đạo phong trào cách mạng và xây dựng hậu cứ sau này, phòng khi kẻ thù phá Hiệp định.
Mấy ngày đầu, nhân dân ở các hòn đi Rạch Giá, Long Xuyên, Châu Đốc, Sài Gòn, thăm hỏi bà con, tham quan vùng thành thị. Phần đông đi thăm, đón tiếp con em đi kháng chiến trở về. Liên tục nhiều ngày, từng tốp ngư phủ nhất là nam thanh niên, rủ nhau chạy tàu kéo về Thứ Mười Một, Cán Gáo dự mít tinh, liên hoan mừng thắng lợi, xem phim, ca vũ kịch...
Được sự lãnh đạo của Huyện ủy An Biên, chi bộ, mặt trận, đoàn thể xã, ấp tổ chức học tập từ trong chi bộ ra nhân dân về nội dung tinh thần Hiệp định Genève, giải đáp thắc mắc trong đảng viên và nhân dân, đồng thời đề ra những công việc cấp bách trước mắt, chỉ đạo xã đội củng cố tổ chức du kích, dân quân ngày đêm canh gác đảm bảo an ninh trật tự, cảnh giác địch, phân công từng tổ tuần tra ven hòn.
Tiếp theo đó là tổ chức học tập trong nội bộ về tình hình, nhiệm vụ, phương châm, sách lược mới để chuẩn bị cho cuộc đấu tranh chính trị ở miền Nam. Cùng lúc các đảo tập trung cho các công tác trước mắt như:
- Phát động nội bộ và nhân dân tăng gia sản xuất, chăm lo đời sống, xây dựng lại xóm ấp…
- Chăm sóc và giải quyết chính sách đối với các gia đình có công.
- Tiến hành thu hồi tiền Cụ Hồ, đổi lại tiền Đông Dương ngân hàng cho nhân dân theo tỉ lệ 1 đồng Đông Dương ngân hàng bằng 30 đồng tiền Cụ Hồ. Cơ quan tài chính thanh toán tài sản công (tài sản quản thủ).
- Cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu đất đai cho những người được chia lúc kháng chiến để có cơ sở pháp lý đấu tranh với đối phương, bảo vệ thành quả cách mạng.
- Tích cực xây dựng, củng cố chi bộ, mặt trận, các đoàn thể để làm tốt nhiệm vụ trước mắt, đồng thời chuẩn bị cho cuộc đấu tranh mới.
Chương VI
KIÊN HẢI TRONG NHỮNG NĂM KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC 1954 - 1975
Với chiến thắng Điện Biên Phủ của quân và dân ta đã buộc Chính phủ Pháp phải ký Hiệp định Genève công nhận độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam; vĩ tuyến 17 là giới tuyến quân sự tạm thời chia 2 miền Nam – Bắc; tháng 7-1956 sẽ tiến hành tổng tuyển cử thống nhất đất nước.
Thực hiện Hiệp địch Genève, ta chuyển quân tập kết ra miền Bắc, giao lại địa bàn cho đối phương quản lý. Tỉnh Rạch Giá có khu vực tập kết 20 ngày ở Hòn Đất, Hòn Me, Hòn Sóc và khu vực tập kết 200 ngày ở phía Nam sông Cái Lớn đến Cà Mau.
Sau khi bàn giao, Hòn Lại Sơn thuộc quyền kiểm soát của Chính quyền Sài Gòn. Lúc này, chi bộ Đảng vẫn tồn tại và hoạt động bí mật. Lợi dụng tình hình, lực lượng Hòa Hảo ly khai ra xã Lại Sơn khủng bố bắt dân đóng tiền. Trước tình hình đó, Trần Ngọc Điểu vào đất liền gặp Lâm Quang Phòng xin lính Bảo an về Lại Sơn dẹp lực lượng này. Lúc này, Trần Ngọc Điểu được phong cấp bậc thượng sĩ, chức vụ Đại diện xã (Chủ tịch Hội đồng hương chính), lãnh đạo 1 tiểu đội, với 12 tên lính bảo an. Lực lượng Hòa Hảo hay tin rút chạy về Hòn Chông.
Thời gian này nỗi vui mừng phấn khởi không còn như những ngày đầu lập lại hòa bình mà xen lẫn băn khoăn, lo lắng vì cả vùng đảo rộng lớn, địch tạm quản lý, ta phải đấu tranh bằng lý lẽ chính trị theo Hiệp định, không còn sử dụng võ trang.
Cán bộ và nhân dân biết rằng Đảng, cán bộ đảng viên còn ở lại bí mật lãnh đạo, nhưng hoạt động bí mật là thế nào trong khi đảng viên từ nhiều năm ở đây, nhân dân (kể cả kẻ xấu) ai cũng biết “làm sao giữ được bí mật?”. Bao băn khoăn, lo lắng lúc này không ai có thể giải thích tường tận. Nhưng nhờ lòng tin đối với Đảng, đối với tương lai của đất nước, nhiều cán bộ và nhân dân còn giữ được sự bình tĩnh; dù không hết băn khoăn…
Tháng 10-1954, tỉnh Rạch Giá được tái lập, huyện An Biên (6) được giao lại cho tỉnh Rạch Giá quản lý do đồng chí Nguyễn Minh Nhựt (Bảy Nhựt) làm Bí thư Huyện ủy. Lúc này, Chi bộ xã Lại Sơn thuộc huyện An Biên do đồng chí Trần Văn Thương làm Bí thư, khẩn trương chuẩn bị về tư tưởng, tổ chức cho cuộc đấu tranh mới.
Chi bộ Lại Sơn lúc này tổ chức theo hệ thống xâu chuỗi: một nòng cốt nắm hai tích cực, một tích cực nắm hai cảm tình trong ngư dân, giới phụ nữ. Số người trong hệ thống xâu chuỗi này lại nằm trong các tổ chức quần chúng công khai hợp pháp và bán công khai bán hợp pháp. Đó cũng là “áo giáp” để che giấu tổ chức bí mật. Trong thời gian ngắn, chi bộ tổ chức được nhiều tổ, nhóm quần chúng…Nhờ vậy, chi bộ, đảng viên nắm khá chặt quần chúng. Nguyễn Văn Khỏi, Trạm trưởng y tế và nhiều chức danh khác trong bộ máy của giặc được ta gây dựng làm cơ sở cho chi bộ Đảng. Đây là cơ sở xuyên suốt của ta trong thời kỳ chống Mỹ.
Chi bộ nhanh chóng hình thành tổ chức đến tận các xóm ấp, hướng dẫn quần chúng hành động theo chủ trương của Đảng, trước mắt để bảo vệ quyền lợi của nhân dân, bảo vệ cơ sở Đảng. Xây dựng được ý thức đoàn kết đấu tranh chống địch, nâng cao ý thức cảnh giác phòng gian bảo mật, theo dõi số người lạ mặt từ các nơi mới đến, phân loại số người có vấn đề nghi vấn, có quan hệ với địch để theo dõi, kịp thời đối phó.
Giữa năm 1955, bộ máy chính quyền của địch đã xây dựng hoàn chỉnh trên địa bàn huyện An Biên. Tại xã Đông Thái, cơ quan hành chánh của chúng đóng tại Thứ Bảy, đại diện xã là Trần Văn Lến (Trần Kinh Trường). Xã Lại Sơn, cơ quan hành chánh đóng tại Bãi Nhà, đại diện xã là Hào Lợi.
Lập tề xã ấp xong, chúng bắt dân làm “tờ khai gia đình” và làm giấy căn cước. Cả quận An Phước, giấy tờ chúng đều sử dụng con dấu mực màu đen để phân biệt vùng này là vùng căn cứ kháng chiến cũ, khác với các nơi. Thi hành chỉ dụ số 2 và dụ số 7 về ruộng đất, chúng bắt dân làm khế ước thuê đất của địa chủ, thực chất là cướp đất của nhân dân đã được cách mạng chia cấp hồi kháng chiến, nhằm xóa thành quả cách mạng. Chấp hành sự lãnh đạo của cấp trên, chi bộ Lại Sơn chỉ đạo cho cơ sở hướng dẫn quần chúng đấu tranh để không làm khế ước.
Chúng sử dụng một số tên làm biệt kích ngầm như tên Đúng ở Vân Khánh, (trước là vệ quốc đoàn) dẫn biệt kích ra Lại Sơn kết hợp với bọn tề ngụy ở đây bắt cán bộ của ta đem giết; đưa một số tên thám báo xuống ở trong dân, ngụy trang là thầy đờn, ca nhạc, thợ chụp hình để theo dõi nắm bắt tình hình phục vụ bọn địch thủ tiêu, ám sát cán bộ.
Ngày 12/5/1955 bọn Lâm Quang Phòng sử dụng Trần Ngọc Điểu làm Chủ tịch, Phạm Vũ làm thư ký, Trung úy Thời, Trung úy Lâm Quang Nghi (em Lâm Quang Phòng), Thượng sĩ Khoánh ra Lại Sơn bắt các đồng chí: Trần Văn Thương, Nguyễn Văn Châu, Huỳnh Ngọc Dàng, Hồ Thị Bồng, Phạm Văn Gia (tự Sau) Trần Khải Hòa ở Bãi Nhà, Năm Khanh ở Bãi Bấc đem xuống tàu, trói 2 tay và cột vào boong tàu (Trần Khải Hòa chạy thoát lúc chúng đem xuống tàu).
Sáng ngày 14/5/1955 tàu chúng chạy về Bãi Bàng cách bờ hòn 4 cây số, tên Khoánh dùng súng tiểu liên bắn đồng chí Nguyễn Văn Châu, rồi xô xuống biển, chúng đưa các đồng chí khác về Xẻo Rô tiếp tục bắn giết nhằm thị uy răn đe dân chúng.
Chúng bắn đồng chí Trần Văn Thương và Năm Khanh tại Xẻo Rô một cách dã man. Các đồng chí Hồ Thị Bồng, Phạm Văn Gia, Huỳnh Ngọc Dàng thì giam tại Vĩnh Thuận; 2 tháng không khai thác được gì, buộc phải thả. Từ đó chi bộ Lại Sơn chỉ còn vài cơ sở quần chúng nòng cốt như Nguyễn Văn Khỏi, Trần Khải Hòa…
Cũng trong năm 1955, ở Hòn Tre, đồng chí Ngô Văn Ả (Bảy Ả), cán bộ xã Đông Thái bị một tiểu đoàn lính từ Xẻo Rô ra vây ráp. Đồng chí chống cự quyết liệt, nhưng cuối cùng đã hy sinh.
Sau khi đồng chí Trần Văn Thương hy sinh (năm 1955), Huyện ủy An Biên cử đồng chí Huỳnh Minh Xứng, là đảng viên xã Vân Khánh về đây củng cố lại cơ sở, mở rộng phạm vi hoạt động, móc nối với các cơ sở trong các xã Vân Khánh, Đông Thái, Tây Yên... để hoạt động. Sau một thời gian, chi bộ Lại Sơn mới được bổ sung, sắp xếp lại. Đồng chí Huỳnh Minh Xứng được chỉ định làm Bí thư.
Năm 1956 là năm bước vào thời kỳ khó khăn đen tối nhất của cách mạng miền Nam. Đây cũng là khó khăn chung của các đảo, trong bối cảnh cán bộ đảng viên phải bám đảo, bám dân để đấu tranh chính trị, Đảng nghiêm cấm hành động bạo lực vũ trang trong lúc địch có quân đội mạnh, chính quyền tàn bạo đủ quyền hành bắn giết, giam cầm tra tấn dã man nhân dân và những người kháng chiến yêu nước.
Bọn tề ngụy ở khu An Phước bắt dân ở Hòn Tre, Hòn Sơn Rái đi làm xâu, sửa đường bộ từ Xẻo Rô đến Thứ Mười Một qua Thới Bình, nhằm thực hiện kế hoạch mở mang kinh tế hòng làm chủ vùng đất U Minh, đánh phá tiêu diệt cơ sở cách mạng của ta ở khắp mọi nơi.
Tại xã Lại Sơn, cơ sở của ta là Trần Ngọc Điểu nghỉ làm việc cho chính quyền Sài Gòn, năm 1959 chính quyền Sài Gòn thay thế Trần Thành Hội, làm Chủ tịch, với cấp bậc Thiếu úy kiêm Trưởng đồn dân vệ Hòn Sơn Rái. Đến năm 1959 chúng lần lượt thay Trần Thành, Nguyễn Đức Thắng (Cao đài Bạch Y Mong Thọ) làm Chủ tịch (Nguyễn Đức Thắng là người của ta cài vào nội bộ địch).
Đến năm 1960, Nguyễn Đức Thắng nghỉ việc do không hoàn thành nhiệm vụ. Trần Khải Hòa là cơ sở của ta được chúng cử làm đại diện Ủy ban hành chánh (thay đổi danh xưng không còn chức danh chủ tịch), Bùi Văn Chính, làm cảnh sát viên thuộc Công an tỉnh Kiên Giang và Phạm Văn Gia, Trưởng ấp Bãi Nhà. Ở hòn không còn lính bảo an, thay vào đó là 2 tiểu đội lính dân vệ, do Trần Khải Hòa chỉ huy (chức danh "Đại diện xã" vẫn giữ suốt đến sau này).
Tình hình xã này tuy địch kiểm soát, nhưng chi bộ Đảng vẫn bám được dân, thuyết phục được những tên tay sai của chúng.
Đầu năm 1960, huyện An Biên thành lập địa phương quân, đồng chí Phan Bình Găng (Ba Tiến), Ba Kèn và một số thanh niên hình thành một trung đội do đồng chí Ba Tiến làm trung đội trưởng, đồng chí Dương Thái Hà (Tám Định), Bí thư xã Đông Thái làm chính trị viên, huyện lập công trường để sản xuất vũ khí. Đồng chí Ba Kèn được phân công phụ trách công xưởng.
Phong trào cách mạng trong huyện và xã Lại Sơn tiếp tục đi lên, có lực lượng vũ trang trừ gian, diệt ác và hình thành du kích xã ấp. Xã lập công trường do Lý Lương phụ trách, sản xuất vũ khí thô sơ cho du kích xã đánh giặc.
Lúc này Hòn Tre cũng thành lập được công binh xưởng, sản xuất được mìn đạp lôi, súng ngựa trời. Đồng chí Nguyễn Văn Tặng trực tiếp sản xuất mìn, đồng chí Hai Thiện và đồng chí Út Bụng làm báng súng và thân súng (mút mít). Nhân dân ở Hòn Tre vào đất liền mua dụng cụ tiếp tế cho xưởng sản xuất vũ khí.
Năm 1961, huyện An Biên giao ấp Hòn Tre về cho thị xã Rạch Giá chỉ đạo. Đồng chí Tám Thạnh được phân công phụ trách ấp. Đồng chí xây dựng cơ sở cách mạng ở đây, móc nối với những người dân trong đất liền có mối quan hệ làm ăn với hòn, gây dựng cơ sở. Có nhiều đợt quyên góp ủng hộ kháng chiến lên đến hơn 300.000 đồng (bằng một huyện ở đất liền ủng hộ).
Sau khi tổ chức xong lực lượng nghĩa quân ở các hòn, địch kiểm soát quần chúng một cách gắt gao. Tối đến, chúng ra lệnh phải treo đèn để dễ kiểm soát, mỗi nhà phải đánh mõ báo động khi phát hiện có cán bộ cách mạng hoạt động.
Tuy trở thành nơi đóng quân của Mỹ-Ngụy, nhưng các đảo vẫn có đảng viên ở trong đất liền vào ra bám dân, lãnh đạo phong trào kháng chiến. Ở Lại Sơn có đồng chí Huỳnh Minh Xứng, ở Hòn Tre có đồng chí Bùi Văn Thạch (phụ trách ấp).
Hòn Sơn Rái đến 1964 có 2 đồn, một đồn đóng ở Bãi Nhà và một đồn đóng ở Bãi Bấc. Đồn Bãi Nhà là đồn chính, quân số 3 trung đội, khoảng hơn 100 tên. Trước đó, quân lính ở lưu động, thường trú tại nhà, lính hầu hết là người địa phương, rất cầu an, không có tinh thần chiến đấu. Khi đăng lính phải lo lót mới được vào cốt để làm ăn, lương tháng nhiều khi không cần lãnh.
Lúc này, Hòn Tre đã có một duyên đoàn Hải quân, với quân số trên dưới 100 quân. Chúng có đủ các loại tàu từ tàu tốc độ cao, hạm nhỏ, BCF, tàu cây đến pho ca… phối hợp với căn cứ Hải quân Xẻo Rô thực hiện hành quân tuần duyên (đi tuần trên biển gần bờ), tuần giang (đi tuần trên sông)...
Hải thuyền Xẻo Rô phối hợp với hải thuyền Hòn Tre đánh ra hướng Hòn Sơn Rái, Nam Du, Phú Quốc. Chúng tuần tra liên tục dầy đặc khắp vùng biển của tỉnh Rạch Giá - Hà Tiên nhằm ngăn cắt giữa đất liền và các đảo, đồng thời ngăn chặn sự chi viện về vũ khí, hậu cần của Trung ương “Cộng sản” từ miền Bắc vào bằng đường biển.
Từ năm 1961 đến 1963 địa phương quân huyện An Biên kết hợp với cơ sở tại Hòn Sơn Rái liên tục tấn công, bức rút đồn bót ở đây. Trong 3 năm, quân ta có 5 lần vượt biển tiêu diệt đồn bót của địch:
Lần thứ nhất, vào tháng 3/1961. Đồng chí Sáu Giác, Ba Tiến (Phan Bình Găng) Huyện đội An Biên, cùng một trung đội địa phương quân của huyện ra Hòn Sơn Rái tập kích đồn Bãi Nhà. Do cơ sở của ta là đồng chí Nguyễn Văn Khỏi, Trương Văn Triệu (lính nội tuyến) nắm tình hình địch rất chính xác, nên trận đánh chỉ kéo dài 10 phút, ta làm chủ được trận địa. Toàn bộ binh lính trong đồn đều tháo chạy. Ta thu toàn bộ vũ khí và đồ dùng quân sự (15 súng Carbin, tài liệu chính quyền và bộ phận phóng thanh, máy đèn).
Lần thứ hai, vào mùng 6 tháng 4/1962. Cũng đồng chí Sáu Giác, Ba Tiến chỉ huy bộ đội dùng vỏ máy ngụy trang là ghe xiệp ra đánh đồn Lại Sơn. Lần này cũng giống như lần trước, vừa nghe tiếng súng của quân ta, toàn bộ ngụy quân đều bỏ chạy, không một tên nào chống cự hay nổ súng. Kết quả ta thu 10 khẩu súng và một số vật dụng khác.
Lần thứ ba, tháng 6/1962. Do quen địa hình và nắm chắc cơ sở, nên đồng chí Sáu Giác, Ba Tiến lại được phân công cùng Sáu Lùn đem quân ra Lại Sơn tập kích đồn. Trương Văn Triệu là lính dân vệ làm nội ứng cho ta. Sau khi Trương Văn Triệu báo cáo là quân địch sẵn sàng buông súng đầu hàng, đồng chí Ba Tiến ra lệnh tấn công. Sau ít phút, ta hoàn toàn làm chủ trận địa, thu toàn bộ vũ khí (12 khẩu súng) và nhiều tài liệu quan trọng khác của chính quyền xã.
Lần thứ tư, tháng 3/1963. Sáu Giác, Ba Răng và Trương Văn Triệu (Nội tuyến) cùng phối hợp đánh đồn Lại Sơn, ta thu 7 khẩu súng M16 và bắt Trưởng ấp Phạm Văn Gia, giáo dục sau đó trả tự do.
Lần thứ năm, tháng 5/1963. Cũng đồng chí Sáu Giác, Ba Răng, cùng một trung đội đến xã Lại Sơn, đóng quân tại Bãi Xép, Mũi Kèo Ngựa, Bãi Nhà. Nguyễn Văn Khỏi hướng dẫn Trần Khải Hòa đại diện xã, Bùi Văn Chính, cảnh sát viên đến gặp đồng chí Sáu Giác bàn phương án đánh đồn Lại Sơn. Sau khi bàn bạc xong với Trần Khải Hòa, Chính về cho lính đóng ở tại đình thần Nguyễn Trung Trực, lực lượng của ta đã bố trí sẵn, chờ lệnh sẽ tấn công. Sau nhiều lượt đạn pháo, toàn bộ binh lính đều bỏ chạy, ta thu toàn bộ vũ khí, bao gồm 17 khẩu súng cùng nhiều đạn dược, lực lượng vũ trang của ta làm chủ tình hình tại ấp Bãi Nhà một ngày, đến chiều hôm sau mới rút quân về đất liền.
Sau nhiều lần bị ta tấn công ở Lại Sơn, Đoàn Quân Trung, Quận trưởng Kiên An tại Thứ Ba đến Lại Sơn khảo sát. Sau khi về, hắn tăng cường thêm cho Lại Sơn một đại đội thám báo do Trung úy Trần Hữu Hạnh chỉ huy, đóng chốt tại hòn 3 tháng để yểm trợ việc xây dựng lại đồn Bãi Nhà. Lúc này Trần Khải Hòa, là cơ sở của ta chưa bị lộ còn được chúng tin dùng, vẫn nằm trong bộ máy của giặc, với chức vụ là đại diện xã Lại Sơn.
Đồng thời với việc tăng cường binh bị cho đồn Sơn Rái, địch cũng tăng cường thêm binh lính cho các đảo, đặc biệt là đảo Củ Tron. Tại đây, chúng cho xây đồn kiên cố, lính tuyển từ các hòn trong xã Lại Sơn, do Nguyễn Văn Xã, người địa phương chỉ huy. Về mặt chính quyền, chúng cử Nguyễn Văn Trượng làm trưởng ấp. (Về sau, Trượng được ta giác ngộ nên không hoạt động gì đáng kể cho chúng).
Về phát triển kinh tế, từ năm 1962 chính quyền Sài Gòn bắt đầu tổ chức thăm dò vùng biển Việt Nam ở Vịnh Thái Lan và đã xác định vùng biển đảo Kiên Giang có nhiều lợi thế để phát triển ngành thủy sản; chúng tập trung đầu tư vào đây. Về mặt quản lý Nhà nước, chính quyền Sài Gòn lập ra Tổng nha Ngư nghiệp ở Trung ương, các tỉnh như Kiên Giang thì lập Ty Ngư nghiệp để phát huy thế mạnh ngành này.
Lúc này, nhiều nhà tư bản Nhật, Mỹ đã tung vào thị trường Kiên Giang đủ các loại máy động cơ từ nhỏ đến lớn với nhiều nhãn hiệu rất phong phú như máy Yanmar, máy LD. Kubota… Các loại máy này bán rất chạy, làm cho tốc độ cơ giới hóa ngư thuyền ở Kiên Giang tiến triển khá nhanh.
Trong những năm này, do đánh bắt phát triển, các hãng nước mắm trên hòn Sơn Rái bắt đầu mở rộng cơ sở sản xuất.
Năm 1966, chính quyền Sài Gòn đặt xã Lại Sơn thuộc quận Kiên Thành, tỉnh Kiên Giang. Ấp Hòn Tre thuộc xã Lại Sơn; Trưởng ấp là Trương Văn Trương. Trung tá Nguyễn Văn Tý, Quận trưởng Kiên Thành lệnh cho xã Lại Sơn tách trung đội nghĩa quân ở đây ra thành 2 trung đội: Huỳnh Văn Đâu nắm giữ một trung đội, Trần Văn Tửu giữ một trung đội. Bãi Bấc có một tiểu đội do Trần Văn Lâm trung đội phó chỉ huy; ở Bãi Bàng có một tiểu đội do Tô Ngọc Cón, Tiểu đội trưởng chỉ huy; ấp Củ Tron một tiểu đội do Nguyễn Văn Xã chỉ huy.
Năm 1967 Nguyễn Văn Khỏi, cơ sở của ta được chúng tin dùng cử làm Xã trưởng, Trần Khải Hòa, cũng là cơ sở của ta, được cử làm Chủ tịch hội đồng nhân dân.
Ngoài Nguyễn Văn Khỏi, ở Lại Sơn còn một cơ sở rất quan trọng khác, đó là đồng chí Trương Văn Ba (Ba Đen). Đồng chí Ba Đen được giao nhiệm vụ làm giao liên từ Lại Sơn vào Rọ Ghe và từ trong đất liền nhận tin tức rồi ra đảo truyền đạt chỉ thị (Ba Đen có vợ ở Bãi Nhà, Lại Sơn).
Đến năm 1968, Hải thuyền Hòn Tre đã có 47 chiếc tàu (120 quân). Chúng thường xuyên phối hợp với căn cứ hải thuyền ở Xẻo Rô đánh ra Nam Du, Phú Quốc và ngược lại.
Năm 1969, ông Trần Văn Khâu ở xã Lại Sơn, thân thế với kiểm lâm Kiên Giang ra Nam Du đốn cây, phá rừng, xây 6 lò đốt than ở Hòn Lớn, Củ Tron. Ông Châu Văn Chánh (Bảy Chánh) ở Củ Tron quá bất bình, mang hàng chục ký đơn, liên tục lên Sài Gòn gặp “nhà chức trách” khiếu kiện. Sau nhiều lần bác đơn, cuối cùng chính quyền Sài Gòn phải chấp nhận và cho đập bỏ 6 lò đốt than của Trần Văn Khâu. Nhân dân trên hòn rất phấn khởi, vì không còn sợ nạn phá rừng.
Cũng trong thời gian này, nhân dân ở Kim Quy và Rọ Ghe (xã Đông Hưng) tản cư ra Lại Sơn khá nhiều vì ở đất liền Mỹ Ngụy liên tục hành quân bắn phá dữ dội.
Năm 1970 ở Củ Tron, Mỹ ngụy cho xây trên đồi núi Hòn Lớn một đài Rađa có một tiểu đội lính hải quân canh giữ. Dàn máy này có khả năng kiểm soát một vùng biển rộng lớn trong vịnh Thái Lan, gây khó khăn không nhỏ cho ta khi vận chuyển quân lương qua vùng biển này, dàn máy này hoạt động liên tục đến ngày ta giải phóng đảo. Từ chân hòn đến trạm Rađa là một con lộ nhựa rất kiên cố. Công trình trạm Rađa ở đây được xếp vào loại nhất nhì trong tỉnh Kiên Giang lúc bấy giờ.
Đồng thời với Củ Tron, tại quần đảo Hải Tặc, chúng cũng cho xây dựng một Trạm Rađa để kiểm soát khu vực biển giáp với Campuchia. Trên đỉnh Hòn Đốc, chúng đặt Đài trạm, xung quanh các hòn, chúng cho đào hào rất sâu có chỗ sâu trên 1 mét, cứ cách 20 mét chúng cho xây một ụ chiến đấu.
Cuộc đấu tranh chống thảm sát ngư dân trên vùng biển
Ngày 19-6-1970, máy bay trực thăng của Mỹ-Ngụy đột nhiên bắn vào đoàn tàu của dân đang đánh bắt trên vùng biển thuộc Nam Du - Hòn Chuối. Liên tiếp 2 ngày sau, chúng mở rộng phạm vi đánh phá đến tận Hòn Sơn Rái. Chúng giết chết 38 ngư dân, trong số đó có nhiều người là ngư dân ở các đảo Hòn Sơn Rái, Hòn Nghệ...
Trước hành động dã man của Mỹ- Ngụy, được Tỉnh ủy Rạch Giá chỉ đạo, Thị ủy Rạch Giá, Huyện ủy An Biên phát động cuộc đấu tranh trực diện với kẻ thù. Các tổ chức cơ sở Đảng, đoàn thể ở tại thị xã Rạch Giá, huyện An Biên, và cơ sở của ta ở các đảo đã vận động, hướng dẫn nhân dân đấu tranh bằng nhiều cách:
Một là, các tàu cá tiến hành “đình công” neo tàu ở bến cảng Rạch Giá.
Hai là, treo cờ tang, thân nhân người bị hại mặc đồ tang đến chùa Phổ Minh (tại chợ Rạch Giá) cầu siêu và tố cáo tội ác của Mỹ - Ngụy.
Sau đó hàng ngàn người đến hưởng ứng, hợp thành rừng người kéo đến dinh Tỉnh trưởng Kiên Giang để biểu tình. Nhân dân cử đại diện đến trụ sở Nghiệp đoàn Ngư nghiệp (số 91 Nguyễn Trung Trực) và Phòng cố vấn Mỹ để đòi bồi thường thiệt hại và yêu cầu chấm dứt bắn giết nhân dân. Đoàn biểu tình ngày càng đông, nhân dân ở nội ô thị xã lo tiếp tế xôi, bánh mì, nước uống, xe chở người đi tham gia biểu tình thì không lấy tiền...
Khí thế đấu tranh của nhân dân, nhất là những người lao động nghề cá và thân nhân người bị hại đã buộc Tỉnh trưởng Nguyễn Khắc Tuân phải hứa bồi thường cho người chết và cho 10 chiếc tàu chạy xuống Đá Bạc vớt xác những ngư dân bị chúng thảm sát. Nhưng, chúng chỉ hứa để xoa dịu tình hình chứ không thực hiện.
Thị ủy thị xã Rạch Giá, Huyện ủy An Biên, Hà Tiên chỉ đạo các cơ sở cách mạng ở Hòn Nghệ, Hòn Heo, Hòn Tre, Nam Du, Lại Sơn phối hợp với nhân dân trong đất liền tiếp tục đấu tranh, đưa thêm lực lượng xuống đường, cùng các xã phát thêm hàng chục đơn yêu cầu lên Tỉnh trưởng, huy động thêm lực lượng và vận động những người có thế lực phát biểu để gây dư luận có lợi cho ta như dân biểu Đặng Văn Phương viết đơn lên Thủ tướng Ngụy quyền Sài Gòn đề nghị những người bị thiệt hại phải được bồi thường thỏa đáng.
Lần này Tỉnh trưởng Kiên Giang lại hứa bồi thường cho mỗi người bị thiệt hại là 5.000 đồng. Nhân dân không chấp nhận và tiếp tục phản đối.
Cuộc đấu tranh kéo dài hơn một tháng thì có Liên đoàn Ngư nghiệp Châu Á đến; cơ sở của ta trong Nghiệp đoàn ngư nghiệp Kiên Giang tranh thủ đến gặp và phản ánh tình hình cuộc thảm sát để tạo dư luận quốc tế.
Cũng trong thời gian này tin tức cuộc đấu tranh của nhân dân Rạch Giá đã đến hậu phương miền Bắc, trong nhiều buổi phát thanh của Đài Tiếng nói Việt Nam đã có nhiều bài bình luận lên án hành động dã man của Mỹ-ngụy và cổ vũ tinh thần đấu tranh của nhân dân ta, gây được tiếng vang trong cả nước và quốc tế.
Trước khí thế sôi sục và bền bỉ của nhân dân, lại bị sức ép của dư luận từ nhiều phía, Tỉnh trưởng Kiên Giang phải cam kết chấm dứt bắn phá vào tàu thuyền của nhân dân, đền bù 12.000 đồng cho mỗi người bị thiệt mạng và mỗi chiếc ghe bị chìm là 2 triệu đồng. Trong đợt này, nhiều người dân ở Hòn Sơn Rái, Hòn Tre, Nam Du, Hòn Nghệ cũng được bồi thường. Cuộc đấu tranh của nhân dân Rạch Giá - Hà Tiên kéo dài đến gần 5 tháng mới giành được thắng lợi.
Thời gian này, Nguyễn Văn Khỏi, cơ sở của ta ở Hòn Sơn Rái, do yêu cầu phải nghỉ làm việc cho chánh quyền của Mỹ - Ngụy, đồng chí Ba Đen và vợ thì về Rọ Ghe ở, Trần Văn Hòa cũng nghỉ theo. Mai Hòa Hoa, Quận trưởng Kiên Thành đưa Nguyễn Văn Huống, Trung đội trưởng nghĩa quân ở xã An Hòa đến làm xã trưởng; Huỳnh Lương Hữu, làm Trưởng Cuộc cảnh sát; Dương Văn Bê, làm xã phó kiêm tài chính; Lý Hồng Lạc, Trưởng ấp Bãi Bấc. Nguyễn Văn Huống tuyển mộ người cùng phe cánh, xây dựng thành lực lượng nghĩa quân, ra sức đàn áp nhân dân, bắt nhân dân có ghe lưới hàng tháng phải đóng tiền, buộc thanh niên đi quân dịch nếu không đút lót tiền của cho hắn, còn lính trong đồn thì bắt phục dịch cho gia đình của hắn như bắt lính đi làm lưới, đi câu v.v…
Hàng tháng, hắn đưa vào quận Kiên Thành một trung đội để đi hành quân với lính quận. Thân nhân người đi lính rất lo sợ, nhiều người không muốn cầm súng, bỏ hàng ngũ của địch trốn về các đảo làm ăn.
Năm 1975, lực lượng cách mạng ở các đảo chủ yếu là cơ sở nội tuyến. Ông Nguyễn Văn Hai (Hai Tây) lúc đó là Trung đội trưởng Dân vệ, Phó trưởng ấp Hòn Tre, do Sáu Dụ và Bảy Giỏi chỉ đạo dùng lực lượng và vũ khí của địch giải phóng đảo.
Đặc biệt, ngày 25/4/1975, căn cứ hải thuyền Hòn Tre địch tháo chạy, ta phân công đồng chí Mười A (Phạm Giải Phóng), Sáu Hải và đồng chí Tư Sao, cán bộ phụ nữ huyện An Biên cùng lực lượng nội tuyến của ta tại Hòn Tre phối hợp dùng tín hiệu (trái khói) buộc chiếc trực thăng chở tên Phó Tỉnh trưởng An Giang và 10 sĩ quan trên đường tháo chạy phải đáp xuống căn cứ Hải quân (cầu cảng bây giờ) để đầu hàng quân ta.
Ta bắt sống toàn bộ lực lượng địch, buộc phi công của chúng điều khiển máy bay về Thứ Nhứt (An Biên) để bàn giao cho Ban Chỉ huy giải phóng thị xã Rạch Giá. Sau ngày giải phóng thị xã Rạch Giá, ta lái trực thăng bay về sân vận động thị xã để cán bộ và nhân dân đến tham quan.
Ở Lại Sơn, trước ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã thành lập Ban tiếp thu. Ban này do Trần Khải Hòa làm Chủ tịch, Nguyễn Văn Khỏi, Phó chủ tịch; đứng ra thu gom vũ khí ở xã, ở tàu Hải quân BCF ghé xã nạp vũ khí và trình diện.
Ngày 1/5/1975, huyện An Biên triển khai lực luợng vũ trang, Đại đội I, địa phương quân huyện An Biên ra tiếp quản toàn bộ các vị trí ở quần đảo Nam Du như trận địa pháo, Đài Rađa ở hòn Củ Tron và Hòn Tre.
Ngày 5/5/1975 Nguyễn Văn Khỏi đi vào Thứ Mười Một gặp đồng chí Phạm Văn Hòa (Năm Hòa) báo cáo tình hình ở Lại Sơn, 3 ngày sau, đồng chí Hai Kỳ Chu, Hai Ký, Sáu Lùng, Năm Chắc đến Lại Sơn tiếp nhận vũ khí. Hai Kỳ Chu, được cử làm Trưởng Ban quân quản; Hai Ký, làm Chủ tịch và Năm Chắc thư ký Ủy ban. Một tháng sau các đồng chí này được quyết định về đất liền nhận nhiệm vụ mới. Ở xã Lại Sơn, đồng chí Sáu Lùng được chỉ định làm Bí thư kiêm Chủ tịch Ủy ban.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, Hòn Tre, Lại Sơn và Nam Du hoàn toàn được giải phóng. Nhân dân rất vui mừng trước thắng lợi của quân giải phóng và quân dân cách mạng địa phương. Người dân theo kháng chiến từ các vùng căn cứ vui mừng trở về làng quê sinh sống, người dân bị địch dồn ép vào các khu ấp chiến lược quay về nơi ở cũ. Trong đó, một số người có người thân tham gia chính quyền ngụy và một số người giàu có không ít băn khoăn khi cách mạng giành chiến thắng. Nhiều người lo sợ bị trả thù vì nghe luận điệu tuyên truyền phản động của chính quyền Sài Gòn: “Cộng sản tắm máu”. Một số binh lính địch rã ngũ tại địa phương nhưng vẫn còn ẩn náu trên đảo. Tình hình buổi giao thời ở một số đảo hết sức phức tạp.
Chương VII
KIÊN HẢI SAU NGÀY GIẢI PHÓNG
(1975 - 1983)
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, các hòn Sơn Rái, quần đảo Nam Du và xã Lại Sơn thuộc huyện An Biên. Vị trí địa lý của các đảo trên vùng biển đóng vai trò quan trọng về quân sự, chính trị và kinh tế đối với chính quyền Sài Gòn và phong trào đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc của ta. Đây là địa bàn tranh chấp mạnh giữa ta và địch. Dưới chế độ Sài Gòn, với mục đích tiêu diệt phong trào đấu tranh cách mạng, địch đã tiến hành nhiều biện pháp chà xát, gom dân ở các hòn…làm cho người dân địa phương lâm vào cảnh khó khăn, đời sống cơ cực, xã hội bất ổn. Về phía chính quyền cách mạng, phong trào đấu tranh luôn được xây dựng, duy trì, nhưng không đều khắp các đảo. Nhiều khoảng thời gian, phong trào cách mạng lâm vào khủng hoảng. Cơ sở cách mạng nhiều đảo không có, một số đảo thì chỉ có tổ chức Đảng trong đất liền, đoàn thể hoặc có chính quyền thì ở trong tình trạng quá mỏng hoặc yếu. Vì vậy, sau khi giải phóng việc thành lập chính quyền cách mạng còn nhiều khó khăn. Đây là những khó khăn chung của cách mạng miền Nam trong những ngày đầu giải phóng, thống nhất đất nước.
Sau khi các đảo được giải phóng, toàn bộ ngụy quân, ngụy quyền ở các đảo Hòn Sơn Rái, Nam Du, Hòn Tre, Hòn Nghệ, Hòn Đốc được tập trung tại các xã Lại Sơn, Bình An, Mỹ Đức để phân loại nhằm thực hiện chánh sách khoan hồng của Đảng. Theo chủ trương của trên, sĩ quan từ cấp úy trở lên và ác ôn được tập trung cải tạo; binh sĩ tề ngụy thì giáo dục tại chỗ, đưa ra nhân dân giáo dục, cho gia đình bảo lãnh, một số đưa về địa phương nơi cư trú để họ làm lại cuộc đời.
Cán bộ công tác quản lý cơ sở được tham gia học tập 5 nhiệm vụ chính trong thời gian quân quản: khẩn trương xây dựng, củng cố chính quyền cách mạng; thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động; truy quét tàn binh, trấn áp bọn phản cách mạng, giữ gìn an ninh trật tự; đẩy mạnh sản xuất, khôi phục kinh tế, tổ chức lưu thông phân phối; xóa bỏ văn hóa đồi trụy, xây dựng nền văn hóa mới: dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội; đẩy mạnh tuyên truyền, phát động quần chúng, củng cố mở rộng mặt trận đoàn kết dân tộc.
Nhìn chung việc tiến hành cải tạo và quản lý ngụy quân - ngụy quyền diễn ra rất chặt chẽ, các Ban quân quản các xã nghiêm cấm không cho bất kỳ ai lợi dụng tình hình lúc mới giải phóng để trả thù, gây ra cảnh hỗn loạn, nên tình hình ở các đảo sớm ổn định và đi vào hoạt động nề nếp.
Trong những ngày đầu mới giải phóng, Ban quân quản xã Lại Sơn bước đầu đã xây dựng bộ máy hành chính, theo đặc thù của từng đảo để triển khai chính sách. Trên các hòn Sơn Rái, Nam Du, chánh quyền, đoàn thể (nông hội) đã được xây dựng. Nhân dân rất tích cực tham gia các phong trào do chính quyền, đoàn thể phát động, nhất là việc bảo vệ môi trường, bảo vệ rừng, bảo vệ nguồn nước trên các đảo, xây dựng con người mới, mở đường, làm lộ...
Chuyển sang giai đoạn mới, cán bộ và nhân dân trên các đảo Nam Du, Lại Sơn, Hòn Tre phải đương đầu với rất nhiều khó khăn trên nhiều lĩnh vực, nhất là lĩnh vực kinh tế xã hội. Đặc biệt là vấn đề khắc phục hậu quả sau chiến tranh, vấn đề ổn định cuộc sống, ổn định tinh thần tư tưởng trong các gia đình có con em là binh sĩ của chế độ cũ...
Các đơn vị dân quân tự vệ ở các hòn được thành lập nhằm bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ sản xuất và sinh hoạt của nhân dân.
Cấp ủy Đảng và chính quyền xã đảo có chủ trương củng cố trật tự trị an, khôi phục và phát triển sản xuất, phát triển chăn nuôi, giải quyết công ăn việc làm, ổn định đời sống, phát triển y tế, văn hóa, phục vụ nhu cầu khám chữa bệnh và vui chơi giải trí cho nhân dân. Nhân dân các hòn rất phấn khởi tin tưởng, tỏ rõ thái độ ủng hộ Đảng và chính quyền cách mạng.
Sau năm 1975, các đảo ven bờ của tỉnh Kiên Giang có số dân trên dưới 8 ngàn người (tính cả Hòn Nghệ, Bà Lụa, Hải Tặc). Đây là vùng thủy sản nhưng chưa khai thác hợp lý, phương tiện đánh bắt còn lạc hậu, nhỏ, lẻ. Ngành thủy sản chưa được phát triển, đất đai trên các đảo còn bỏ hoang nhiều. Cán bộ được tăng cường từ đất liền ra đảo nên chưa có kinh nghiệm trong quản lý lãnh đạo. Nhiều đồng chí do không phù hợp cuộc sống và công tác ở đảo, nên Huyện ủy An Biên phân công thay đổi liên tục (Xã Lại Sơn từ 1975 đến 1983 đã thay đổi 6 Bí thư xã).
Thực hiện sự chỉ đạo của huyện An Biên và Hà Tiên, các đảo Hòn Nghệ, Hòn Tre, Lại Sơn, Hòn Đốc, Củ Tron đã tiến hành điều tra, cấp đất cho nông dân nghèo. Người dân được cấp đất đã nhanh chóng bắt tay vào sản xuất.
Về thương nghiệp, một số đảo thực hiện việc mua bán theo chế độ tem phiếu, giấy giới thiệu. Ngân hàng Nông nghiệp huyện An Biên, Hà Tiên cử cán bộ tín dụng xuống các đảo để giúp hỗ trợ vốn cho dân sản xuất, nhất là sản xuất nước mắm.
Mặc dầu còn nhiều khó khăn như cơ sở vật chất tạm bợ, lực lượng giáo viên xáo trộn, nhưng huyện An Biên vẫn tổ chức trường lớp từ cấp tiểu học (Hòn Tre, Củ Tron) đến trung học cơ sở (Lại Sơn).
Huyện An Biên đã cử cán bộ tuyên truyền đến các đảo để vận động nhân dân xóa bỏ hủ tục lạc hậu, xây dựng con người mới.
Ngành y tế huyện An Biên, Hà Tiên đã kịp thời xuất thuốc men, kinh phí, điều động cán bộ ra tận các đảo để ngăn chặn nạn dịch sốt xuất huyết đã cứu sống 35 người mắc bệnh.
Huyện ủy, Ủy ban nhân dân An Biên, Hà Tiên tập trung chỉ đạo sản xuất nông nghiệp như: trồng rừng, trồng cây ăn trái, trồng thử nghiệm rau xanh ở các đảo có dân cư sinh sống. Chính quyền sở tại tạo điều kiện cung cấp vốn, giống và vật tư nông nghiệp cho nhân dân sản xuất. Ngân hàng nông nghiệp cho nông dân được vay vốn để đầu tư vào sản xuất.
Ngày 25 tháng 4 năm 1976, nhân dân các đảo, quần đảo trong tỉnh tham gia bầu cử Quốc hội khoá VI của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Có hơn 97% cử tri các đảo Lại Sơn, Hòn Tre, Nam Du đi bầu; mọi người đều phấn khởi, xem đây như ngày hội.
Ngày 1 tháng 7 năm 1976, Huyện ủy An Biên mở hội nghị để đánh giá tình hình ở địa phương sau một năm kể từ ngày đất nước thống nhất, kiểm điểm nhận thức của cán bộ, đảng viên về những thuận lợi và khó khăn trên chặng đường xây dựng chế độ xã hội mới dưới sự lãnh đạo của Đảng. Toàn thể hội nghị thống nhất cho rằng cần phải “nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng bộ, củng cố chính quyền với tinh thần tự lực, tự cường, độc lập, sáng tạo, đưa địa phương phát triển nông nghiệp, công nghiệp theo phương thức sản xuất mới ”.
Đầu năm 1976, do dân cư phát triển, đất thổ cư trên Hòn Sơn Rái quá ít, không thể bố trí dân cư, nên chánh quyền vận động người có nhiều đất đai ở đây hiến một phần đất ở Bãi Giếng để cấp cho nhân dân ở trên đảo. Nhờ vậy, mà chính quyền có quỹ đất để cấp cho dân cất nhà, từ đó mở thêm xóm ấp, sửa chữa đường sá…làm cho khu vực này trở nên sầm uất. Bà Lê Thị Mai đã hiến 10 công đất trồng dừa tại ấp Bãi Nhà A, Ủy ban nhân dân xã cấp cho dân cất nhà thành khu dân cư mới, tức tổ 10 ngày nay.
Ngày 15-5-1977, có 80% nhân dân các đảo đã đi bầu cử Hội đồng nhân dân 3 cấp, nhân dân rất phấn khởi vì đã lựa chọn được những đại biểu ưu tú, đại diện cho mình tham gia vào Hội đồng nhân dân các cấp tỉnh, huyện, xã.
Từ đầu năm 1977, huyện An Biên, Hà Tiên bắt đầu phát động phong trào làm ăn tập thể dưới hình thức liên kết sản xuất, vần đổi công.
Đến năm 1978, phong trào có những bước chuyển biến lớn. Xã Lại Sơn đã xây dựng được 5 tập đoàn sản xuất nghề cá và 5 tổ sản xuất nước mắm.
Trong chăn nuôi, do nguồn giống, thức ăn gia súc hạn chế nên các đảo phát triển chậm. Đàn heo có 730 con; gà, vịt có 1.839 con. So với năm 1976 thì số lượng chăn nuôi gà vịt năm 1978 có tăng, riêng đàn heo giảm, tuy không đáng kể.
Về công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, ngoài cơ sở quốc doanh, 5 tổ hợp tác làm ăn dưới dạng tập thể hình thành trước đây đã thành lập thêm một trại mộc cưa xẻ gỗ, ba cơ sở sản xuất nước mắm, ba tổ hợp chế biến nông sản tại Hòn Tre và Hòn Sơn Rái.
Trong lâm nghiệp, bên cạnh việc khai thác gỗ để cất nhà, đóng thuyền...công việc trồng rừng cũng được các đảo quan tâm. Giai đoạn này, các đảo đã trồng được trên 3.000 cây các loại.
Hoạt động thương nghiệp ở xã Lại Sơn, Hòn Tre, Củ Tron được quy hoạch theo mạng lưới đưa hàng đến người mua, không để xảy ra tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, góp phần bình ổn giá cả thị trường.
Huyện An Biên đã chỉ đạo thành lập hợp tác xã mua bán xã Lại Sơn phục vụ nhân dân các đảo.
Năm 1978, Đội chiếu bóng lưu động của huyện An Biên ra Hòn Sơn Rái phục vụ, nhân dân rất phấn khởi. Đội văn nghệ huyện An Biên đã tổ chức biểu diễn văn nghệ và chiếu phim phục vụ nhân dân trên các đảo, thu hút hàng ngàn lượt người xem.
Trong tình hình khó khăn chung, nhưng ngành giáo dục huyện An Biên cũng ưu tiên đầu tư giáo dục cho các đảo, tăng cường cho các xã đảo cả giáo viên cũng như xây dựng trường lớp.
Về y tế, huyện An Biên đã xây dựng mạng lưới khám chữa bệnh cho người dân từ các xã, ấp đảo. Huyện An Biên xây dựng một trạm y tế, một nhà hộ sinh tại xã Lại Sơn.
Trong 2 năm 1977 - 1978, địa bàn các đảo là nơi bọn tổ chức vượt biên lợi dụng địa hình chia cắt, tổ chức vượt biên trái phép.
Qua điều tra, lực lượng an ninh huyện An Biên và Hà Tiên đã truy quét, trấn áp, triệt phá nhiều tổ chức phản cách mạng, ngăn chặn âm mưu phá hoại của địch và giữ vững trật tự xã hội, bảo vệ chính quyền. Phong trào bảo vệ an ninh trên địa bàn các đảo lúc này được phối hợp chặt chẽ giữa 3 lực lượng quân sự, an ninh và các đoàn thể quần chúng.
Giữa năm 1978, trong mùa nước lụt, bọn Pôn - pốt lấn chiếm biên giới Tây Nam. Một số nơi trong tỉnh như An Biên, Gò Quao, thị xã Rạch Giá, bọn phản động nhen nhóm mưu toan gây bạo loạn để phối hợp hành động. Nhân dân các xã đảo “ bắt đầu trở lại thời kỳ vừa có hòa bình vừa có chiến tranh”. Các xã đảo gần biên giới Tây Nam như Hòn Đốc, Hòn Heo, Hòn Nghệ…nhân dân luôn luôn sẵn sàng cùng lực lượng dân quân tự vệ ngày đêm canh giữ, bảo vệ đảo.
Tại quần đảo Hải Tặc, năm 1979, bọn Pôn pốt đã sang chiếm hòn Kèo Ngựa và hòn Kiến Vàng, chúng xây dựng những phòng tuyến ở phía giáp Campuchia rất kiên cố và gây một số tội ác ở các đảo chung quanh. Ta xây phòng tuyến bên trong, trận địa ở Bãi Bấc, Bãi Dầu và Mũi Ông Kiến để chống trả lại địch.
Tại các đảo Hòn Tre, Củ Tron, Hòn Sơn Rái, Hòn Nghệ, Hòn Heo, lực lượng dự bị động viên, dân quân tự vệ sẵn sàng chiến đấu chống quân xâm lược và giúp nước bạn Campuchia. Đồng thời chủ động phát hiện bọn nhập biên, vượt biên, trấn áp bọn nhen nhóm phản động, không để xảy ra bạo loạn.
Do nơi đây là vùng biển rộng, gần hải phận quốc tế, ngư dân đánh bắt hải sản đông đảo, khó kiểm soát, nên các đảo gần bờ được xem là cửa ngõ của bọn nhập biên và tổ chức đưa người vượt biên.
Trong vòng 2 năm 1979, 1980 hàng trăm vụ nhập biên và vượt biên được bắt giữ và ngăn chặn. Có vụ đặc biệt nghiêm trọng như cướp tàu của ngư dân, khống chế tài công, buộc chủ ghe phải chạy tàu sang Thái Lan, Malaixia... Có nhiều vụ giết người dã man để cướp tàu trốn đi nước ngoài...
Vào những năm 1980, ngư trường Kiên Giang có nhiều thuyền đánh cá của các tỉnh bạn, nhất là của các tỉnh miền Trung tập trung về đây khai thác.
Năm 1983, do giá cả mặt hàng mực khô tăng giá đột biến nên nghề đánh bắt mực càng phát triển.
Tại xã Lại Sơn, nhiều chủ ghe mua máy Yanmar 20cv về gắn cho tàu đánh cá giúp cho tầm hoạt động rộng hơn, ra khơi xa hơn, an toàn hơn, số lượng nhiều hơn. Nghề lưới cào, lưới rê phát triển mạnh.
Nhân dân Hòn Tre, Hòn Nghệ phát triển nghề cào và nghề câu biển.
Các xã, ấp đảo vẫn còn làm ăn cá thể, các loại ngư lưới cụ mua rất khó khăn, mỗi lần máy tàu hư phải vô tận đất liền để xin giấy giới thiệu của Phòng Hải sản mới được mua theo giá chỉ đạo. Các hãng nước mắm sản xuất ra nhiều, nhưng không có chỗ tiêu thụ. Nói chung tình hình kinh tế thời gian này là rất khó khăn.
Chương VIII
THÀNH LẬP HUYỆN KIÊN HẢI
1. Huyện Kiên Hải qua các lần thay đổi địa giới hành chính
Cuối năm 1982, trước yêu cầu an ninh quốc phòng, phát triển kinh tế biển đảo, Tỉnh ủy, Hội đồng Nhân dân, Ủy ban Nhân dân tỉnh Kiên Giang nhận thấy phần diện tích biển Tây Nam thuộc tỉnh Kiên Giang quản lý rất rộng lớn; huyện An Biên, huyện Hà Tiên có diện tích mặt biển quá rộng, nhiều đảo cách đất liền quá xa, có đảo hơn 100 km, rất khó khăn cho công tác quản lý địa bàn, cũng như lãnh đạo phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng nên tỉnh Kiên Giang đã quyết định đề nghị với Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) cho thành lập huyện mới, lấy tên là huyện Kiên Hải. (7)
Ngày 14-01-1983, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 04-HĐBT về việc thành lập huyện Kiên Hải thuộc tỉnh Kiên Giang, gồm 6 xã: Nam Du, Bà Lụa, Hòa Đốc, Hòn Nghệ, Hòn Tre và Lại Sơn. Trụ sở của huyện đóng tại xã Hòn Nghệ.
Ngày 29-3-1983, Ủy ban Nhân dân tỉnh Kiên Giang ra Quyết định số 107 về việc thành lập huyện Kiên Hải trên cơ sở lấy toàn bộ xã đảo Lại Sơn (gồm cả quần đảo Nam Du và Hòn Tre) của huyện An Biên và 03 ấp Hòn Nghệ, Hòn Heo, Hòn Tre Cửa (quần đảo Hải Tặc, Bà Lụa, Hòn Nghệ) của huyện Hà Tiên. Huyện Kiên Hải có 6 xã (đảo và quần đảo), gồm xã Hòn Tre (đảo Hòn Tre, nơi đặt trụ sở của các cơ quan cấp huyện), xã An Sơn (quần đảo Nam Du), xã Lại Sơn (Hòn Sơn Rái), xã Hòn Nghệ (Hòn Nghệ), xã Sơn Hải (quần đảo Bà Lụa) và xã Tiên Hải (quần đảo Hải Tặc).
Ngày 12-4-1983, đoàn cán bộ đầu tiên của huyện từ đất liền ra Hòn Tre nhận nhiệm vụ và tổ chức buổi lễ công cố sự kiện thành thành lập huyện tại trường học Hòn Tre.(8)
Ngày 27-09-1983, Hội đồng Bộ trưởng ra Quyết định số 107-HĐBT về việc phân vạch địa giới một số xã, phường và thị trấn Kiên Lương thuộc tỉnh Kiên Giang. Theo đó, đổi tên xã Nam Du thành xã An Sơn; đổi tên xã Bà Lụa thành xã Sơn Hải; đổi tên xã Hòa Đốc thành xã Tiên Hải.
Ngày 24-05-1988, Hội đồng Bộ trưởng ra Quyết định 92-HĐBT về việc điều chỉnh địa giới huyện Châu Thành để mở rộng địa giới thị xã Rạch Giá; thành lập phường, xã, thị trấn thuộc thị xã Rạch Giá và các huyện Châu Thành, An Minh, Gò Quao, Hòn Đất; điều chỉnh địa giới hành chính huyện Hà Tiên và huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang. Theo đó, chuyển xã Tiên Hải thuộc huyện Kiên Hải về huyện Hà Tiên quản lý. Như vậy, huyện Kiên Hải còn 5 xã gồm: An Sơn, Sơn Hải, Hòn Nghệ, Hòn Tre và Lại Sơn.
Ngày 17- 08-2000, Chính phủ ban hành Nghị định số 33/2000/NĐ-CP về việc điều chỉnh địa giới hành chính huyện Kiên Hải và huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang. Theo đó, chuyển xã Hòn Nghệ và xã Sơn Hải thuộc huyện Kiên Hải về huyện Kiên Lương quản lý. Lúc này, huyện Kiên Hải còn 3 xã là: An Sơn, Hòn Tre và Lại Sơn.
Ngày 26 - 07 - 2005, Chính phủ ban hành Nghị định số 97/2005/NĐ-CP về việc thành lập thành phố Rạch Giá thuộc tỉnh Kiên Giang; điều chỉnh địa giới hành chính, thành lập xã thuộc các huyện Gò Quao, An Minh, Châu Thành, Kiên Hải và Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang. Theo đó, thành lập xã Nam Du thuộc huyện Kiên Hải trên cơ sở 440 ha diện tích tự nhiên và 5.484 nhân khẩu của xã An Sơn.
Như vậy, sau ba lần điều chỉnh địa giới hành chính, huyện Kiên Hải hiện nay có 4 xã, gồm: Hòn Tre (trung tâm hành chính của huyện), Lại Sơn, An Sơn và Nam Du với tổng diện tích tự nhiên 2.459,80 ha (24,598 km2) gồm 23 hòn đảo lớn nhỏ, trong đó 11 đảo có dân sinh sống, với dân số 20.255 người (9). Với vị trí địa lý nằm ở hướng Tây của tỉnh Kiên Giang, cách thành phố Rạch Giá khoảng 16 hải lí. Phía Đông giáp với vịnh Rạch Giá và huyện Châu Thành, phía Tây giáp với huyện Phú Quốc, phía Nam giáp với huyện An Biên và An Minh, phía Bắc giáp với huyện Hòn Đất, Hà Tiên, Kiên Lương và Campuchia.
2. Kiên Hải trong thời kỳ 1983-1986
Ngày 2/4/1983, Ban Thường vụ Tỉnh ủy quyết định chỉ định Ban Chấp hành Đảng bộ Lâm thời huyện Kiên Hải gồm 10 đồng chí:
1- Đồng chí Võ Thành Quyết (Tư Quyết) Tỉnh ủy viên, được Ban Thường vụ Tỉnh ủy chỉ định làm Bí thư Huyện ủy. (10)
2- Đồng chí Lương Văn Khải, Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy.
3- Đồng chí Phạm Minh Sang, Phó Bí thư, Chủ tịch UBND huyện.
4- Đồng chí Đoàn Văn Tiết, Huyện ủy viên, Phó Chủ tịch UBND huyện.
5- Đồng chí Nguyễn Hữu Trang, Huyện ủy viên, ủy viên thư ký Ủy ban nhân dân huyện, phụ trách khối văn xã.
6- Đồng chí Trương Hoàng Chiêu, được chỉ định làm Huyện ủy viên, Ủy viên Ủy ban nhân dân huyện, Trưởng phòng Tài chính.
7- Đồng chí Nguyễn Văn Thủy, Ủy viên Thường vụ, Trưởng Công an huyện.
8- Đồng chí Trần Thanh Bình, Ủy viên Thường vụ, Huyện đội trưởng.
9- Đồng chí Trần Dung, Huyện ủy viên, Phó Công an huyện.
10- Đồng chí Nguyễn Hoàng Dũng, Huyện ủy viên, Trưởng phòng Hải sản.
Đến tháng 9-1983, đồng chí Võ Thành Quyết được Tỉnh ủy điều sang làm công tác khác; đồng thời chỉ định đồng chí Phạm Minh Sang (Năm Sang) làm Bí thư Huyện ủy. Đến cuối năm 1985, Tỉnh ủy có sự điều động, phân công lại cán bộ, đồng chí Phạm Minh Sang, làm Phó Bí thư – Chủ tịch Ủy ban Nhân dân huyện; đồng thời phân công đồng chí Trần Văn Tố (Tư Tố) làm Bí thư Huyện ủy.
Ngày 12-4-1983 cán bộ huyện Kiên Hải từ đất liền tập trung về xã đảo Hòn Tre làm lễ công bố quyết định thành lập huyện nên ngày này cũng được coi là ngày mang dấu ấn rất quan trọng trong việc thành lập huyện.
Đảng bộ khi mới thành lập chỉ có 39 đảng viên được bố trí ở các ngành huyện và 6 xã. Bộ máy lãnh đạo, chỉ đạo và quản lý toàn huyện tất cả có 148 người. Trong đó có 4 người có trình độ đại học, 25 người có trình độ cấp III, 46 người có trình độ cấp II.
Sau khi đã ổn định về bộ máy tổ chức và cán bộ, Huyện ủy tập trung lãnh đạo nhân dân phát triển sản xuất, mở mang ngành nghề, cử cán bộ xuống từng xã đảo để điều tra, thống kê nắm tình hình chung của các đảo.
Lúc này, Huyện ủy lâm thời Kiên Hải hết sức lo lắng trước những khó khăn:
- Do các đảo của huyện nằm rải rác nên khi gặp mưa kèm theo giông bão sẽ cản trở giao thông đường biển, làm ách tắc các hoạt động giao thông liên lạc trên các đảo với đất liền và đảo với đảo. Nhiều xã muốn về trung tâm huyện ở Hòn Tre phải đi vòng vào đất liền rồi mới ra đảo.
- Toàn huyện chưa có hệ thống đường nội bộ, đường vòng quanh đảo, chưa có phương tiện giao thông công cộng giữa các đảo và với đất liền.
- Hầu hết các đảo đều thiếu nước ngọt cho sản xuất và sinh hoạt vào mùa khô.
- Cán bộ thiếu do một số người ở đất liền ra chưa có kinh nghiệm công tác ở đảo, nhân dân địa phương lo làm ăn ít chịu tham gia chính quyền và vào các tổ chức đoàn thể.
- Trình độ dân trí rất thấp, tỷ lệ người mù chữ còn cao, trẻ em đến 15 tuổi thường nghỉ học, phương tiện dạy và học rất thiếu.
- Mức sống nhân dân các xã đảo còn thấp, hộ đói nghèo còn nhiều, phần đông thiếu vốn sản xuất.
- Hệ thống thông tin liên lạc ở các đảo vẫn chưa có…
Vấn đề đặt ra cần giải quyết trong giai đoạn này là ổn định tình hình kinh tế-xã hội của huyện, sắp xếp lại sản xuất, làm tốt việc phân công, phân cấp, tập trung điều kiện, vật chất kỹ thuật, đầu tư cho ngành hải sản.
Cuối tháng 4 năm 1984, Tỉnh ủy đã chỉ thị cho Huyện ủy Kiên Hải, yêu cầu Huyện ủy trong chỉ đạo phát triển kinh tế cần xác định rõ mối quan hệ: ngư, công, nông, lâm nghiệp, để phát triển một cách toàn diện; kết hợp phát triển nông lâm nghiệp toàn diện, chú ý phát triển những cây có giá trị xuất khẩu như: dừa, đào lộn hột và cây ăn quả lâu năm khác. Đẩy mạnh trồng rừng trên các quần đảo nhằm cân bằng sinh thái, cải tạo môi sinh, tái tạo lại nguồn nước là điều kiện sống còn của các đảo.
Mặt khác, trong chỉ đạo cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới cần chú ý tổ chức hài hòa giữa quốc doanh, tập thể và kinh tế hộ gia đình; đưa các phương tiện đánh bắt, chế biến hải sản vào hợp tác xã (HTX) và tập đoàn sản xuất theo hai hướng: quốc doanh và tập thể, từng bước sắp xếp lại lao động, phát triển thêm ngành nghề gắn chặt phát triển kinh tế và giữ vững an ninh quốc phòng.
Chấp hành chỉ thị của Tỉnh ủy và trên cơ sở nhận thức được những khó khăn, thuận lợi, Huyện ủy tập trung chỉ đạo một số lĩnh vực trọng yếu sau:
Đảng bộ xác định rõ thủy sản là thế mạnh hàng đầu của huyện. Đồng chí Phạm Minh Sang, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện và các đồng chí trong Ban Thường vụ, Ban Chấp hành Huyện ủy lâm thời thường xuyên phân công nhau đi cơ sở để vận động nhân dân đầu tư đóng mới tàu thuyền, mua sắm mới các ngư lưới cụ để phục vụ đánh bắt. Vận động nhân dân tham gia vào các tổ hợp tác đánh bắt và chế biến nước mắm.
Từ năm 1983 đến 1985, nhân dân các xã Hòn Nghệ, Tiên Hải, An Sơn, Hòn Tre, Lại Sơn, Sơn Hải đã đầu tư đóng mới hơn 100 chiếc tàu có công suất từ 20 đến 50 mã lực.
Từ năm 1983 đến 1984, huyện đã xây dựng được một xí nghiệp quốc doanh đánh cá, một xí nghiệp quốc doanh chế biến nước mắm. Các xí nghiệp này hàng năm nộp ngân sách đúng kế hoạch trên giao, nhất là kế hoạch thu mua hải sản, tuy nhiên hiệu quả còn thấp.
Đây là thời điểm thực hiện chủ trương tập thể hóa tàu thuyền, mặc dù còn nhiều băn khoăn lo lắng, nhưng nhiều ngư dân Kiên Hải vẫn tự nguyện gia nhập tập đoàn, tổ hợp tác. Cuối năm 1984, toàn huyện đã có 14 tập đoàn sản xuất nghề cá với 68 phương tiện, 8 tổ hợp tác chế biến nước mắm.
Số tàu thuyền chưa vô tập đoàn sản xuất còn trên dưới 300 chiếc lớn nhỏ, đây là trở ngại lớn cho công tác cải tạo công thương nghiệp của huyện trong giai đoạn này, nhiều cán bộ, đảng viên phải chịu thi hành kỷ luật vì không hoàn thành nhiệm vụ.
Về thu mua, các cơ quan thuộc ngành thủy sản còn độc quyền thu mua các mặt hàng hải sản, nhưng mức độ thu mua so với sản lượng đánh bắt thực tế còn thấp.
Năm 1983, ngành hải sản huyện thu mua được 4.581 tấn, năm 1984 thu mua được 6.387 tấn, năm 1985 thu mua được 6.392 tấn. Cơ bản hoàn thành chỉ tiêu giao nộp sản phẩm cho tỉnh, có một số mặt vượt kế hoạch.
Văn kiện Đại hội lần thứ nhất của huyện đã đánh giá vấn đề này, như sau:
“Đảng bộ chỉ đạo điều hành khai thác tập trung theo từng ngư trường, từng thời vụ thuận lợi để quản lý được tốt hơn, mở rộng liên doanh liên kết kinh tế chế biến một số loài thủy sản, tạo thêm nguồn khả năng về nhiên liệu ngư lưới cụ phục vụ cho yêu cầu sản xuất. Tuy nhiên so với khả năng thuận lợi về ngư trường thì kết quả khai thác, huy động sản phẩm thu mua còn đạt thấp so với thực tế, cơ sở hậu cần phục vụ cho đánh bắt và bảo quản chưa đáp ứng, biện pháp quản lý tàu thuyền, ngư trường và sản lượng khai thác còn thất thoát nhiều, nhất là mặt hàng có giá trị xuất khẩu, công tác cải tạo nghề cá tuy được tổ chức, nhưng chất lượng làm ăn chưa đúng tính chất”.
Với quyết tâm của toàn đảng bộ, sau đó ít tháng, huyện đã thành lập được công ty thu mua hải sản, gồm 7 cửa hàng và một đội tàu vận chuyển, một xí nghiệp khai thác với đội tàu cỡ nhỏ. Có nhiều hải sản quý xuất khẩu như: tôm, cá cơm, cá trích, cá ngừ, cá thu, cá nhám, bào ngư, hải sâm…
Tháng 8/1985, Huyện ủy đề nghị Tỉnh ủy bổ sung thêm hai đồng chí vào Ban Chấp hành là đồng chí Huỳnh Văn Gành, Huyện ủy viên, Trưởng Ban Dân vận và đồng chí Trần Công Lập, Huyện ủy viên phụ trách công tác tổ chức làm Chánh Văn phòng Huyện ủy.
Ngành hải sản của huyện đến cuối năm 1986 đã khai thác được 11.950 tấn hải sản đạt được 92% kế hoạch, trong đó có 750 tấn tôm xuất khẩu, mực 180 tấn, cá cơm 4.500 tấn. Thu mua được 6.527 tấn tôm-cá và gần 1 triệu lít nước nắm. Chế biến được 1.355 tấn hải sản thành phẩm như cá khô, mực khô, nước nắm… Nhân dân trên các đảo không có ai thất nghiệp, thiếu việc làm. Cuộc sống của nhân dân ổn định.
Năm 1985, Huyện ủy tăng cường thêm cán bộ cho các công ty, xí nghiệp. Quyết tâm của Huyện ủy lâm thời lúc này là xây dựng các công ty, xí nghiệp quốc doanh, sớm khắc phục được những yếu kém trong quản lý tiền vốn, vật tư, trang thiết bị để đủ sức kinh doanh có lãi.
Cuối năm 1985, các công ty, xí nghiệp hạch toán đã có lãi, đóng vai trò nòng cốt cho phong trào khai thác nghề cá của huyện Kiên Hải thời bấy giờ.
Ngoài việc chăm lo xây dựng lực lượng nghề cá quốc doanh, Huyện ủy còn tiếp tục chỉ đạo vận động, thuyết phục được 397 phương tiện tàu đánh bắt của nhân dân trong huyện làm đơn tự nguyện vào 3 tập đoàn, 71 tổ đoàn kết sản xuất, 24 tổ chế biến cá khô và nước nắm, thu hút 2.127 lao động nghề biển vào làm ăn.
Những năm 1984, 1985, ngành hải sản của huyện đã giúp đỡ vật tư thiết bị và cả máy mới thay thế, sửa chữa, tăng thêm mã lực cho gần 100 tàu thuyền đánh bắt cá, trong đó có hàng chục xuồng chèo tay, câu cá, thẻ mực của nhân dân trên các đảo được trang bị máy chạy dầu Diezel và máy chạy xăng loại nhỏ để đánh bắt xa hơn. Nhờ vậy tổng sản lượng khai thác của huyện Kiên Hải tăng gấp 2,6 lần năm 1983.
Ngay từ đầu năm 1985, Huyện ủy đã chú trọng đầu tư cho các nghề lưới cào, lưới vây, lưới ni-lon, lưới ba thưa, để khai thác tôm, cá thu, cá ngừ, cá cơm, mực. Các phương tiện đánh bắt này phát triển rất mạnh ở các xã đảo, đặc biệt là Hòn Tre và Hòn Sơn Rái.
Đến cuối năm 1985, huyện đã thành lập được 3 công ty: Công ty Thủy sản, Công ty thương nghiệp, Công ty cung ứng xuất khẩu, 7 cửa hàng thương nghiệp (trong đó một cửa hàng ăn uống, 6 cửa hàng bán lẻ), 6 hợp tác xã mua bán.
Thời gian này, hợp tác xã mua bán được xem là độc quyền, chiếm lĩnh một số mặt hàng quan trọng như lương thực, thực phẩm tươi sống. Hợp tác xã trực tiếp đưa xuống các xã đảo bán cho nhân dân.
Với diện tích hiện có 1.785 hecta đất có khả năng trồng cây lâm nghiệp và cây ăn trái. Đảng bộ đã phát động nhân dân tận dụng diện tích trồng các loại cây ăn trái và hoa màu.
Phần lớn diện tích núi đồi trên đảo được nhân dân cải tạo thành vườn rừng, trồng các loại cây ăn trái lưu niên như xoài, mít, mãng cầu…
Các xã Hòn Nghệ, Lại Sơn, Hòn Tre trồng mới được 3.900 cây ăn trái, nâng tổng số lên 40.000 cây, từ năm 1980 đến 1984.
Một số xã, nhất là An Sơn, chánh quyền còn xem nhẹ mặt này, nên phát triển các loại cây trồng, vật nuôi tăng chậm. Xã Sơn Hải, suốt 3 năm (1983-1985), trồng chưa đầy 200 cây ăn quả các loại, nuôi gia cầm thì không đáng kể.
Tình trạng dân đốn phá cây rừng bừa bãi, làm cho cây rừng ngày càng cạn kiệt, nhất là ở Hòn Mấu...diễn ra khá nghiêm trọng.
Nhìn chung, cái ăn, cái mặc, cơ bản đủ cho nhân dân tiêu dùng ở mức rất hạn chế. Riêng mặt hàng vải sợi mỗi người được bán 8 mét trong một năm (năm 1985).
Nguồn thu từ trao đổi hàng hóa bằng mặt hàng thủy sản, xuất khẩu mỗi năm của huyện Kiên Hải thời điểm này là 1.156.000 USD, trong đó huyện được sử dụng là 110.000 USD.
Cuối năm 1985, Bệnh viện huyện và Trường phổ thông trung học tại Hòn Tre được đưa vào sử dụng. Trụ sở Ủy ban nhân dân huyện và các cơ quan ban ngành cấp huyện, xã cũng được xây dựng trong thời gian này. Đặc biệt là nhà máy đèn của huyện đã hoàn thành cơ bản và đưa vào sử dụng vào dịp tết năm 1985.
Nhiều công trình xã hội được xây dựng theo phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm. Cuối năm 1985, Nhà máy sản xuất nước đá của huyện được đưa vào hoạt động.
Các xã Hòn nghệ, Hòn Tre, nhân dân hưởng ứng việc làm lộ, làm cầu qua suối, nên việc đi lại trên đảo thuận lợi hơn trước. Các xã có điều kiện thì tổ chức tàu khách, một số xã ở xa thì kết hợp với tàu của các cơ quan huyện đi công tác và tàu của dân ở địa phương nên tình trạng thiếu phương tiện giao thông giữa đảo với đảo, giữa đảo với đất liền được cải thiện.
Đầu năm 1986, hệ thống thông tin liên lạc giữa tỉnh đến huyện và xã được trang bị bằng máy điện thoại tầm ngắn, chủ yếu để phục vụ cho việc chỉ đạo và lãnh đạo.
Các xã đều có Trạm y tế, cơ sở vật chất tương đối đủ so với nhu cầu. Số bác sĩ, y sĩ có tăng lên, thuốc trị bệnh cho nhân dân ở các xã được chăm lo nhiều hơn. Toàn huyện đã có 6 trạm y tế kết hợp trạm hộ sinh ở các xã (30 giường), với diện tích sử dụng rộng trên 100m2, 1 bệnh viện huyện (30 giường) với 1 bác sĩ, 19 y sĩ, 16 y tá, 3 nữ hộ sinh. Huyện đã gởi đi học tại các trường chuyên môn 10 người, trong đó có 1 bác sĩ, 2 nữ hộ sinh, 3 y tá và 3 cán bộ chuyên môn khác.
Huyện thường xuyên tuyên truyền vận động nhân dân tham gia phong trào vệ sinh phòng dịch, giữ sạch nguồn nước ở các suối, năm 1985 đã phun thuốc cho 970 hộ gia đình, ngăn chặn kịp thời các ổ dịch xảy ra.
Trường học ở các xã, ấp đều được sửa chữa và xây dựng mới đảm bảo được công việc giảng dạy và học tập, số học sinh trong độ tuổi đến trường chiếm 65%, chất lượng giảng dạy được thầy cô giáo chú ý hơn, tình trạng thiếu thầy, thiếu trường ở một số xã trong những năm trước đây đã được khắc phục. 6 xã trong huyện đã xây cất thêm 10 điểm trường mới, cộng với cơ sở cũ được sửa chữa lại là 57 phòng với 49 lớp học. Niên học 1985 - 1986 huyện khai giảng 67 lớp, có 2.060 học sinh cấp I, cấp II.
Trong huyện có 3 xã có Thư viện là Hòn Tre, Lại Sơn và An Sơn; Đài truyền thanh đặt tại Hòn Tre, các xã Lại Sơn, Hòn Nghệ và Tiên Hải có tổ truyền thanh. Đoàn chiếu phim lưu động của huyện thường xuyên đi phục vụ trên các đảo trong huyện.
Năm 1985 tổ chức 130 buổi vừa chiếu phim vừa biểu diễn văn nghệ quần chúng phục vụ cho 56.700 lượt người xem. Bình quân 1 người dân được xem phim và biểu diễn văn nghệ 7 lượt /năm. Văn nghệ quần chúng có 89 người tham gia, có trên 70 tiết mục tự biên tự diễn.
Toàn huyện có 1.187 hộ, trước đây tỷ lệ hộ thiếu ăn lên đến 30%. Nhưng đến năm 1985 do việc sắp xếp công việc làm ăn có hiệu quả, nhất là tổ chức thu mua hải sản của nhân dân được tiến hành khá chặt chẽ, ai cũng có việc làm ổn định nên trong huyện không còn người thiếu ăn. Mức tiêu dùng bình quân đầu người bằng hiện vật lúc này về lương thực qui thóc 400kg/người/năm, đường cát 4kg/người/năm, thịt các loại 1,8kg người/năm, cá 70-80kg/người/năm.
Đầu năm 1985, trước nhu cầu xây cất nhà ở cho nhân dân trên đảo Hòn Tre ngày càng cao, Huyện ủy chủ trương cho nhân dân khai thác cát, đá trên đảo để xây cất sửa chữa nhà ở, làm đường. Mặt khác, huyện cử cán bộ qua tận Núi Sập (An Giang) tìm thợ về để xẻ đá làm gạch, cắt đá làm nóng để cất nhà sàn...Từ đó nhà sàn làm bằng nóng đá đã ra đời tại Hòn Tre.
Trong 3 năm 1983, 1984, 1985 lực lượng an ninh nhân dân trên đảo, trên biển của huyện đã bắt được 2 toán 10 tên (1 tên Anh, 1 tên Mỹ và 8 tên Thái Lan) xâm nhập trái phép vùng biển của ta và ngăn chặn được 27 vụ trốn ra nước ngoài, bắt giữ 413 tên (trong đó có người tại địa phương trốn đi 23 vụ, ta bắt được 9 vụ). Xảy ra một vụ vượt biên tập thể 25 hộ ở ấp Hòn Ngang xã Sơn Hải, gây dư luận không tốt trong nhân dân.
Đến tháng 9 năm 1986, Đảng bộ có 16 chi bộ cơ sở. Huyện ủy mạnh dạn xem xét đề bạt cán bộ trẻ, có triển vọng để đảm bảo tính kế thừa. Trong 3 năm này, Huyện ủy đã đề bạt, bổ nhiệm 7 đồng chí chủ chốt ở cấp huyện, 25 cán bộ chủ chốt cấp xã và tương đương.
Việc kiểm tra vi phạm của đảng viên, gắn với tự phê bình và phê bình trong Đảng được tiến hành thường xuyên. Trong thời gian này, Huyện ủy đã thi hành kỷ luật 20 đảng viên có sai lầm khuyết điểm, trong đó khai trừ ra khỏi Đảng 8 đồng chí do có khuyết điểm nghiêm trọng, chủ yếu là trong quản lý kinh tế, tài chính.
Ngày 4 tháng 3 năm 1986, Ban Chấp hành Huyện ủy lâm thời họp mở rộng, đồng chí Phạm Minh Sang, Phó Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện, thay mặt Huyện ủy đã đánh giá:
“Tuy có đạt nhiều tiến bộ, song công tác xây dựng Đảng còn một số thiếu sót và tồn tại, công tác chính trị tư tưởng chưa được thường xuyên liên tục và nhạy bén với tình hình mới diễn ra, giải thích về nhận thức tư tưởng, trong cán bộ, đảng viên và quần chúng thiếu kịp thời, còn một số đảng viên về quan điểm lập trường còn rất kém, chưa thể hiện được vai trò tiên phong gương mẫu trước quần chúng, tổ chức cơ sở Đảng quá ít và yếu, đào tạo phát triển đảng viên tại chỗ chưa nhiều. Đảng viên trong đoàn thể quần chúng các cơ sở sản xuất kinh doanh chưa đủ mạnh và còn 16 ấp trong huyện chưa có đảng viên, quản lý cán bộ chưa chặt còn lỏng lẻo trong sinh hoạt, tỷ lệ vi phạm kỷ luật gần 20% và trong xử lý thiếu kiên quyết nghiêm minh”.
Cuối năm 1986, bộ máy chính quyền xã qua bầu cử Hội đồng nhân dân đã kiện toàn thêm một bước. Các xã Hòn Nghệ, Hòn Tre, Tiên Hải và Sơn Hải được tăng cường thêm cán bộ chủ chốt.
Ở cấp huyện, các phòng ban chuyên môn được sắp xếp gọn lại và giảm biên chế để phù hợp với yêu cầu và nhiệm vụ mới. Các ban ngành huyện Kiên Hải lúc này giảm chỉ còn 13 đơn vị, số biên chế dôi ra là 27, trong đó có một số thuộc diện “thoái hóa phẩm chất”.
Trong 3 năm 1983 đến 1986, toàn huyện đào tạo được 320 cán bộ các loại, trong đó 13 cán bộ trung cấp, 30 cán bộ sơ cấp.
Bộ máy đoàn thể quần chúng từ huyện đến xã, ấp cũng được củng cố và thành lập mới. Huyện xây dựng được 17 chi đoàn, với 350 đoàn viên và 300 hội viên; Hội phụ nữ kết nạp được 385 hội viên, Hội Nông dân tập thể kết nạp được 320 hội viên.
Báo cáo sơ kết 3 năm thực hiện nhiệm vụ của huyện, bên cạnh đánh giá về những kết quả, thành tích đạt được cũng đã chỉ ra những hạn chế: “Trong chỉ đạo chưa tập trung đúng mức cho thế mạnh hải sản của huyện, phát huy chưa hết năng lực tàu thuyền đánh bắt, thiếu quy hoạch lại ngành nghề khai thác và chế biến để tập trung vốn đầu tư nhằm đạt hiệu quả cao hơn, chưa quan tâm đến việc mở rộng thêm các ngành nghề kinh tế khác mà huyện, xã khả năng có thể làm được, chưa tận dụng khả năng quần chúng theo phương châm nhà nước và nhân dân cùng làm theo phương thức tập thể và gia đình”.
Chương IX
KIÊN HẢI THỜI KỲ 1986 - 2005
1. Kiên Hải trong hai năm đầu thực hiện đường lối đổi mới của Đảng (1986 - 1988)
Chuẩn bị cho Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 6, thực hiện sự chỉ đạo của Tỉnh ủy Kiên Giang, Huyện ủy Kiên Hải tích cực chuẩn bị mọi mặt để tiến tới Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ nhất.
Tháng 5 năm 1986, Ban Chấp hành Đảng bộ họp kiểm tra việc chuẩn bị văn kiện, nhân sự chuẩn bị cho Đại hội lần thứ I, dưới sự chủ trì của đồng chí Trần Văn Tố, Bí thư Huyện ủy, Hội nghị đã nhất trí thông qua danh sách nhân sự, các văn kiện trình Đại hội. Ngày 20 tháng 11 năm 1986, Ban Chấp hành lâm thời Đảng bộ Kiên Hải họp phiên cuối cùng để kiểm tra lại toàn bộ các thủ tục cần thiết để tiến hành Đại hội.
Từ ngày 22 đến ngày 23 tháng 11 năm 1986, Đảng bộ huyện Kiên Hải tổ chức Đại hội lần thứ I. Đại hội đã thể hiện tinh thần dân chủ, công khai và đổi mới.
Đại hội nhất trí cho rằng sau 3 năm thành lập huyện, tình hình kinh tế - xã hội có bước phát triển, trật tự xã hội ổn định, xây dựng được hệ thống chính trị từ huyện, xã đến ấp; các ngành sản xuất, nhất là nghề cá đang phát triển; sự nghiệp văn hóa, giáo dục, y tế...có nhiều tiến bộ.
Đại hội kêu gọi các ngành, xã, ấp “ra sức phát triển sản xuất thủy hải sản, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ. Đẩy mạnh công tác y tế, giáo dục, thực hiện tốt chính sách xã hội, giải quyết công ăn việc làm, xây dựng nếp sống mới, con người mới, nâng cao đời sống nhân dân”
Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành Đảng bộ huyện gồm 19 thành viên; đồng chí Trần Văn Tố được bầu làm Bí thư Huyện ủy; đồng chí Huỳnh Văn Gành, Phó Bí thư Huyện ủy; đồng chí Trương Hoàng Chiêu, Phó Bí thư, kiêm Chủ tịch UBND huyện.
Các ngành chủ chốt được cơ cấu ủy viên thường vụ phụ trách, các xã đều có bố trí cấp ủy lãnh đạo.
Sau Đại hội, bộ máy của huyện tuy được sắp xếp theo tinh thần đổi mới, nhưng chưa đáp ứng được nhiệm vụ đặt ra, nhiều cơ sở còn yếu kém, kinh tế xã hội chuyển động theo hướng tích cực, nhưng chưa thật sự mạnh, tiềm năng khai thác chưa đúng mức. Dân số tăng nhanh, nhất là số dân tạm trú từ các tỉnh, thành trong cả nước về đây khai thác, thu mua hải sản, gây tranh mua, tranh bán, làm đảo lộn cuộc sống của một bộ phận lớn dân cư. Đặc biệt, khi bước vào giai đoạn đổi mới, cơ chế quản lý chưa thật sự bắt nhịp, làm ăn còn trì trệ, tiêu cực xã hội vẫn còn nhiều, pháp luật chưa thật sự phát huy sức mạnh, từng nơi, từng lúc quần chúng còn chưa yên tâm.
Từ ngày 14 đến ngày 17/10/1986, Đại hội Đảng bộ tỉnh Kiên Giang lần thứ IV được tổ chức. Đại hội đã đánh giá, phân tích thực chất những thành tựu kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng trong 5 năm (1981 - 1986), nghiêm khắc tự phê bình và phê bình; chỉ rõ những yếu kém, khuyết điểm và nguyên nhân khó khăn, gây cản trở cho xu thế phát triển của địa phương. Đại hội đã khẳng định phải đổi mới tư duy, nhất là tư duy kinh tế; đổi mới công tác tổ chức và cán bộ; đổi mới phong cách lãnh đạo và lề lối làm việc.
Ngày 15 đến ngày 18/12/1986, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã được triệu tập, đây là Đại hội đổi mới toàn diện đất nước trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Sau đại hội Đảng bộ huyện, Huyện ủy Kiên Hải tổ chức học tập để cho toàn thể đảng viên quán triệt tinh thần đổi mới của Đảng, đề ra nhiệm vụ củng cố các tổ chức Đảng ở các ngành và các xã, tăng cường sự lãnh đạo và nâng cao sức chiến đấu của đảng bộ trong tình hình mới. Huyện ủy thường xuyên mở các lớp bồi dưỡng lý luận chính trị, kiến thức văn hóa cho nhiều lượt cán bộ, đảng viên.
Trong nhiệm kỳ, đảng bộ phát triển được 17 đảng viên mới. Toàn huyện có 12 cơ sở Đảng với tổng số 137 đảng viên. Các cấp ủy đã xử lý kỷ luật 15 trường hợp đảng viên bằng nhiều hình thức, trong đó, khai trừ ra khỏi Đảng 7 đảng viên với nhiều sai lầm khuyết điểm trong quản lý kinh tế, trong thực hiện nhiệm vụ đổi mới.
Năm 1987, huyện tổ chức bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp. Cấp ủy các cấp đã cử 57 cán bộ, đảng viên tham gia vào ban bầu cử, tổ bầu cử và ứng cử làm đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. Kết quả bầu cử, đa số cán bộ đảng viên của Đảng tham gia ứng cử đều được nhân dân tín nhiệm bầu vào Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp.
Mặt trận và các tổ chức thành viên trong nhiệm kỳ này đã được củng cố, kiện toàn. Số lượng hội viên, đoàn viên Hội nông dân, Liên hiệp phụ nữ, Đoàn thanh niên hàng năm đều tăng lên, các hoạt động hội, đoàn có đổi mới, nhất là trong công tác vận động quần chúng tham gia các phong trào yêu nước tại các đảo. Đường lối đổi mới của Đảng, được nhân dân các xã đảo đón nhận với tinh thần phấn khởi. Quyền làm chủ của người dân được phát huy trên các lãnh vực, cơ chế “Đảng lãnh đạo, nhân dân lao động làm chủ, nhà nước quản lý” thực sự phát huy. Sự phối hợp giữa chính quyền các cấp, các ngành, các tổ chức đoàn thể trong nhiệm kỳ này được tăng cường, hiệu quả hơn. Nhiều đơn thư góp ý xây dựng Đảng đã được các cấp ủy tiếp thu và sửa chữa nghiêm túc.
Thực hiện đổi mới, Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện lãnh đạo và hướng dẫn cho đảng bộ, chánh quyền, đoàn thể các cấp “nhanh chóng giải phóng lực lượng sản xuất, phát huy hết sức mạnh hiện có, phát triển toàn diện trong khai thác hải sản, trong việc trồng rừng, trồng cây ăn trái, phát triển chăn nuôi…Bằng các biện pháp linh hoạt, trên tinh thần thực hiện ba chương trình kinh tế lớn của Đảng là “lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu”.Đảng bộ xác định lại cơ cấu kinh tế, nhất là cây trồng, vật nuôi, ngành nghề trên các đảo để phù hợp với đất đai, tập quán lao động, nhằm đầu tư vốn, giống cho những cây, con, ngành nghề trọng điểm.
Đảng bộ kêu gọi nhân dân phát triển dịch vụ nghề cá, nhằm tạo ra năng lực chế biến tại chỗ; mở rộng thị trường tiêu thụ với các tỉnh, thành trong cả nước, xem đây là yếu tố quan trọng, là đòn bẩy để phát triển kinh tế xã hội toàn diện của huyện.
Ngày 17 tnáng 10 năm 1987, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện họp mở rộng, kiểm điểm công tác năm, đánh giá khái quát tình hình khai thác, đánh bắt thủy sản của huyện: “Mặc dù có phát triển, nhưng xét một cách tổng thể thì chưa đồng bộ, thiếu toàn diện, do qui hoạch và kế hoạch cũng như chỉ đạo phát triển kinh tế biển chưa tốt, nên khai thác còn tự phát. Phát triển kinh tế, bảo vệ ngư trường có tiến bộ, nhưng hiệu quả chưa cao, từng lúc còn đánh bắt bừa bãi, dịch vụ nghề cá chế biến chưa đáp ứng yêu cầu, thu mua chưa tốt, tiêu thụ hàng hóa phần nhiều còn dạng thô, giá trị chưa cao, thị trường tiêu thụ còn nhiều khó khăn”.
Thời gian này, nhân dân ở Kiên Hải vẫn còn đánh bắt tôm, cá mực ven biển, trong vịnh cạn. Nhiều người chưa có điều kiện mua sắm tàu thuyền có công suất lớn, nên đa phần dùng tàu nhỏ và lưới ba thưa để ra khơi đánh bắt, thường là ở cự ly gần hai đến ba chục km, đi về chỉ mất một buổi.
Việc thực hiện kế hoạch khai thác đánh bắt và huy động thu mua các mặt hàng hải sản năm 1986, 1987 đạt còn thấp so với yêu cầu của huyện.
Tổng số sản lượng khai thác trong toàn huyện năm 1986, 1987, bình quân mỗi năm chỉ đạt 63% kế hoạch, tương đuơng bằng 9.106 tấn hải sản các loại, chủ yếu là khu vực quốc doanh (7.680 tấn, đạt 86,39% so với kế hoạch), khu vực tư nhân không đáng kể, sản lượng khai thác mà Nhà nước quản lý được chỉ có 14%. Năm 1986, 1987 thất thoát trên 50% sản lượng.
Nguyên nhân chủ yếu là do giá cả thu mua một số mặt hàng có giá trị xuất khẩu không phù hợp. Trong khi huyện thu mua tôm thẻ giá chỉ có 900đ đến 1.200đ/kg, thì thị trường bên ngoài mua giá với giá từ 1.500đ đến 2.000đ/kg, bên cạnh đó huyện lại thiếu tiền mặt nghiêm trọng không phục vụ được kịp thời cho công tác thu mua.
Mặt khác, tư thương trên biển, tàu các nơi đến ngư trường của huyện tranh mua tranh bán, làm cho giá lên cao, các phương thức thu mua của huyện chưa được đổi mới một cách thích hợp, còn nhiều bất cập trong phân loại và đánh giá tỷ lệ hàng thủy sản chưa hợp lý giữa người mua và người bán.
Hơn nữa, ngành hải sản của huyện thiếu các biện pháp quản lý sản phẩm tại gốc, cấp ủy chính quyền địa phương còn buông lỏng, khoán trắng cho ngành thủy sản.
Trên lĩnh vực phân phối lưu thông thời gian này có những khó khăn, phức tạp: giá cả tăng vọt, tài chánh, tiền mặt thường xuyên căng thẳng, các hoạt động nắm hàng, nắm tiền, quản lý giá cả trong kinh doanh thương nghiệp rất bất cập.
Tình hình giá cả biến động ngày một tăng cao, đồng tiền tiếp tục mất giá, khối lượng tiền mặt trong lưu thông tăng (vốn lưu động của thương nghiệp tăng gấp 3 lần) vòng quay đồng vốn chậm (khoảng 2 vòng), quỹ hàng hóa không tăng, thậm chí có mặt hàng giảm. Thương nghiệp XHCN chưa thật sự đổi mới cơ chế thu mua, giao nhận hàng còn nhiều tầng nấc trung gian không cần thiết.
Năm 1987 hoạt động của Công ty kinh doanh tổng hợp huyện Kiên Hải doanh số mua vào chỉ có 350 triệu, trong khi doanh số bán ra là 369 triệu, bán lẻ tại địa phương 88 triệu.
Mạng lưới hợp tác xã mua bán chậm củng cố, hiệu quả kinh tế thấp, vòng quay vốn chậm, thanh quyết toán không kịp thời. Giai đoạn này tình trạng chiếm dụng vốn của ngành thương nghiệp nói chung còn khá phổ biến, nhất là việc chiếm dụng hàng tiền các Hợp tác xã mua bán, công ty thương nghiệp quốc doanh của cán bộ nhân viên Nhà nước, làm cho vốn của các hợp tác xã, các công ty này vốn đã ít, lại càng ít hơn.
Tình trạng thu không đủ chi kéo dài; thời điểm này, thu chi chỉ đáp ứng khoảng 70% nhu cầu tiền mặt. Do đồng tiền tiếp tục mất giá, vốn lưu động các ngành kinh tế tăng cao, việc quan hệ mua bán đều phải dùng tiền mặt, lượng tiền mặt qua ngân hàng ít, đồng thời các ngành sản xuất kinh doanh chưa chấp hành nghiêm về chế độ đăng nộp tiền mặt vào ngân hàng, huyện chưa có biện pháp tích cực để tháo gỡ khó khăn này; cơ chế ngân hàng có sửa đổi, nhưng còn chậm, nên chưa quy động tích cực đồng vốn nhàn rỗi ở các ngành kinh tế quốc doanh và ngoài nhân dân.
Trong tình hình phát triển mới, những yêu cầu của công tác văn hóa, xã hội đòi hỏi ngày càng cao, nhằm đáp ứng nhiệm vụ chính trị và nhu cầu hưởng thụ của quần chúng, huyện đã xây dựng được một đội văn nghệ không chuyên ở cấp huyện và 6 đội nghiệp dư ở các xã đảo, duy trì được một đội chiếu bóng lưu động của huyện đi phục vụ thường xuyên cho nhân dân trên các đảo.
Năm 1987, Đài truyền thanh huyện đã có mạng lưới cộng tác viên ở hầu hết các xã, thực hiện 2 lần phát trong ngày. Nội dung chương trình phát của Đài khá phong phú, vừa tuyên truyền chủ trương, đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước, vừa bày tỏ những nguyện vọng của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước trong cuộc sống. Huyện có một hiệu sách bán được trên 1.000 ấn phẩm sách báo, văn hóa phẩm.
Những năm này, hoạt động thể dục thể thao trên các đảo ngày càng trở thành phong trào chung, có nhiều người thường xuyên tham gia tập luyện, nhất là nam thanh niên.
Huyện chú trọng phát triển sự nghiệp giáo dục ở tất cả các ngành học, từ nhà trẻ đến phổ thông trung học và bổ túc văn hóa. Đến năm 1988, toàn huyện có 8 điểm trường với 1.490 học sinh. Trong năm xây mới được 8 phòng học, nâng cấp 11 phòng, đóng 100 bộ bàn ghế và 7 bảng đen. Mặc dù, có đầu tư đáng kể, nhưng huyện vẫn còn 5 lớp học ca ba. Đây là khó khăn lớn nhất đối với ngành giáo dục của huyện lúc này.
Cuối năm 1988, bệnh viện huyện được mở rộng thêm thành 35 giường. Các trạm y tế các xã cũng được củng cố, đội ngũ cán bộ y tế đều tận tâm phục vụ nhân dân; công tác tiêm chủng mở rộng, phòng chống bệnh, vệ sinh thực phẩm, môi trường được duy trì thường xuyên, các đảo xa được cấp phát thuốc phòng chống sốt rét.
Trong 2 năm 1987, 1988, huyện có 167 thanh niên nhập ngũ. Lực lượng dân quân tự vệ các xã được tăng cường, bình quân một xã có từ 20 đến 30 người, nhìn chung công tác huấn luyện quân sự sẵn sàng chiến đấu được duy trì thường xuyên. Trong 2 năm, lực lượng công an nhân dân đã phát hiện và xử lý 15 vụ vi phạm kinh tế, hình sự, chính trị. Tình hình câu móc người trốn đi nước ngoài trái phép trên địa bàn được ngăn chặn.
Trong năm 1988 có 10 đơn thư khiếu tố, khiếu nại của công dân, 29 vụ tranh chấp dân sự. Các ngành chức năng của huyện đã xử lý dứt điểm, kịp thời không còn vụ việc nào tồn đọng.
Năm 1987, Tỉnh ủy, Hội đồng Nhân dân, Ủy ban Nhân dân tỉnh có quyết định điều chỉnh địa giới hành chính của huyện: giao xã Tiên Hải (quần đảo Hải Tặc) về cho huyện Hà Tiên. Kiên Hải chỉ còn lại 5 xã.
2. Kiên Hải trong thời kỳ 1989-1991
Từ ngày 12 đến 13 tháng 1 năm 1989, thực hiện điều lệ Đảng, huyện Kiên Hải tổ chức Đại hội đại biểu lần thứ hai. Đại hội đã họp trong 2 ngày. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành đảng bộ với 25 đồng chí: đồng chí Trần Văn Tố, tiếp tục được bầu làm Bí thư Huyện ủy; đồng chí Trần Công Lập, Phó Bí thư Huyện ủy; đồng chí Huỳnh Văn Gành, Phó Bí thư, Chủ tịch UBND huyện.
Đại hội đã thống nhất cao về nhiệm vụ của nhiệm kỳ này: “Tiếp tục đổi mới tư duy, đổi mới tổ chức cán bộ, làm trong sạch nội bộ Đảng, Nhà nước, làm lành mạnh các quan hệ xã hội, đẩy mạnh sản xuất phát triển, ổn định đời sống nhân dân, giữ vững an ninh quốc phòng trên cơ sở tập trung vào ba chương trình kinh tế lớn: lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu".
Các mục tiêu cụ thể được Đại hội xác định là:
- Đẩy mạnh sản xuất ổn định đời sống nhân dân, hoàn thành nghĩa vụ đối với cấp trên và từng bước có tích lũy.
- Xây dựng hoàn chỉnh cơ cấu kinh tế ngư, nông, lâm, công nghiệp để quy hoạch đầu tư hợp lý, sử dụng đúng đắn các thành phần kinh tế, mở rộng liên doanh, liên kết.
- Tập trung sức củng cố các đơn vị kinh tế quốc doanh và ngoài quốc doanh phù hợp với điều kiện đất đai, lao động hiện có.
- Tăng cường xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho sản xuất và đời sống.
- Củng cố tăng cường đúng mức cho nhiệm vụ an ninh quốc phòng, khôi phục trật tự an toàn trên địa bàn huyện.
Đại hội đã phân tích tiềm năng và thế mạnh của huyện, xác định phương hướng sản xuất, phát triển kinh tế xã hội, trọng tâm là khai thác và chế biến hải sản, kết hợp ngư nông lâm công nghiệp trên khắp địa bàn, phát triển ngành nghề, kinh tế gia đình...
Đại hội đã thống nhất rằng cần tập trung giải quyết các mối quan hệ chủ yếu trong đời sống kinh tế - xã hội của huyện, kết hợp đẩy mạnh sản xuất với làm chủ phân phối lưu thông, phát triển kinh tế cả chiều sâu lẫn chiều rộng, khai thác tiềm năng kinh tế tại chỗ với hợp tác kinh tế, thông qua xuất nhập khẩu; kết hợp kinh tế với quốc phòng và an ninh; đẩy mạnh phát triển ngư nông nghiệp toàn diện theo hướng kết hợp chặt và cân đối giữa nông với ngư, trồng trọt với chăn nuôi và chế biến.
Từ sau đại hội lần thứ I, Đảng bộ huyện Kiên Hải thường xuyên tổ chức học tập cho cán bộ đảng viên và nhân dân về những chủ trương của Huyện ủy và Ủy ban nhân dân huyện trong phát triển kinh tế, văn hóa xã hội. Qua nhiều đợt học tập, đảng bộ và nhân dân đã củng cố thêm lòng tin vào quá trình đổi mới của Đảng, khắc phục được những lệch lạc trong nhận thức về mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, mục tiêu xây dựng huyện đảo.
Đến cuối năm 1990, huyện có 40% cơ sở Đảng đạt danh hiệu vững mạnh, 50% loại khá và 10% xếp loại yếu. Công tác bồi dưỡng, đào tạo nâng cao trình độ cho cán bộ, đảng viên được chú trọng. Cấp ủy huyện có 5 đồng chí hoàn thành lớp cán bộ chủ chốt kế cận; 21 đồng chí tốt nghiệp lớp trung cấp chính trị hệ tại chức, 1 đồng chí học trường Nguyễn Ái Quốc. Trong nhiệm kỳ, huyện kết nạp 16 đảng viên mới.
Công tác kiểm tra Đảng được quan tâm và phát huy tác dụng, góp phần vào sự nghiệp đấu tranh chống tiêu cực trên các lĩnh vực kinh tế xã hội. Số lượng đảng viên được kiểm tra tăng lên, số đảng viên vi phạm kỷ luật phải xử lý có giảm xuống. Đồng thời, công tác kiểm tra đã minh oan cho 13 đồng chí, trong đó có 7 đồng chí cấp ủy cơ sở.
Nhìn chung, trong nhiệm kỳ này, cấp ủy đã kịp thời củng cố các tổ chức cơ sở đảng yếu kém, tăng cường cán bộ trẻ có phẩm chất, năng lực và kinh nghiệm cho cơ sở; quản lý đảng viên chặt chẽ hơn. Phong cách lãnh đạo, lề lối làm việc, ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần trách nhiệm, nề nếp sinh hoạt có nâng lên.
Tuy nhiên, công tác tổ chức kiện toàn cơ sở Đảng giai đoạn này chưa đồng bộ, hiệu quả chưa cao, công tác quy hoạch đào tạo, bố trí đội ngũ cán bộ và lực lượng kế cận có làm, nhưng chưa được xây dựng cụ thể từ cơ sở lên, bố trí cán bộ chưa chuyên, vẫn còn chắp vá, nhất là cán bộ chủ chốt.
Năm 1990, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp đã có bước đổi mới về phương thức hoạt động. Quản lý nhà nước được điều hành bằng pháp luật, phát huy dân chủ. Bộ máy quản lý từ cơ chế quan liêu, bao cấp chuyển sang cơ chế quản lý mới về kinh tế- xã hội có bước chuyển đổi, sắp xếp lại tinh gọn.
Trong nhiệm kỳ, Mặt trận và các đoàn thể vận động hàng trăm lượt quần chúng thực hiện công cuộc đổi mới của Đảng bằng nhiều hình thức, phương pháp vận động phù hợp với tình hình, nhiệm vụ địa phương. Các tổ chức cơ sở được thành lập như tổ mặt trận, tổ nhân dân tự quản ở ấp, khóm và địa bàn dân cư hoạt động hiệu quả trong việc tuyên truyền giáo dục, xây dựng tình làng, nghĩa xóm, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau, giữ gìn an ninh trật tự.
Hội nông dân cũng được kiện toàn, nhất là ở cơ sở. Hội đã giải quyết được 15 vụ việc tranh chấp đất đai, giúp đỡ hàng trăm hội viên trong sản xuất và đời sống. Hội Liên hiệp Phụ nữ cũng vận động hàng trăm hội viên thực hiện phong trào giúp nhau làm kinh tế gia đình, nuôi dạy con tốt, hạn chế trẻ em suy dinh dưỡng và bỏ học…tạo điều kiện cho phụ nữ huyện ổn định cuộc sống và có thời gian tham gia công tác, hoạt động xã hội.
Đoàn Thanh niên tập hợp được thanh niên ở các đảo theo sở thích, nghề nghiệp và kết hợp với khuyến ngư, khuyến nông. Tuy vậy, tổ chức đoàn thể ở cơ quan còn chồng chéo, lề lối làm việc còn sự vụ thiếu khoa học, chưa sâu sát cơ sở. Đội ngũ cán bộ đoàn thể thiếu an tâm, chưa gắn bó với tổ chức của mình.
Liên đoàn lao động chăm lo đời sống, các quyền lợi chế độ, chính sách cho viên chức, người lao động kịp thời. Hội Chữ thập đỏ tổ chức cứu trợ giúp đỡ cho hàng trăm trường hợp gặp khó khăn, khám bệnh, phát thuốc miễn phí cho những gia đình neo đơn. Hội Cựu chiến binh, một số tổ chức tuy mới được thành lập, nhưng đã đóng góp một phần công sức vào việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương, nhiều hội viên gương mẫu thực hiện các chủ trương của địa phương.
Huyện ủy và nhiều chi ủy cơ sở đã quan tâm đến công tác quần chúng. Tăng cường cán bộ cho đoàn thể, lắng nghe ý kiến của các đoàn thể và quần chúng, tạo điều kiện vật chất và kinh phí cho các đoàn thể hoạt động. Tuy nhiên, một số cấp ủy cơ sở còn giao khoán công tác vận động quần chúng cho cấp ủy viên phụ trách dân vận hoặc Ban chấp hành các đoàn thể, Ủy ban Mặt trận. Qua kiểm điểm trách nhiệm đảng viên cuối năm, cho thấy nhiều đảng viên còn xa dân, chưa làm tốt công tác vận động quần chúng.
Nhìn chung, nội dung hoạt động của đoàn thể chưa gắn với lợi ích thiết thực của đoàn viên, hội viên, nên chưa thu hút được quần chúng tự nguyện vào tổ chức.
Nguyên nhân của tình hình trên là do các cấp ủy Đảng chưa làm cho cán bộ đảng viên thông suốt nghị quyết của Đảng, thiếu đào tạo bồi dưỡng cán bộ đoàn thể, mặt khác các cấp, các ngành chưa thật sự quán triệt nghị quyết 8 của Trung ương, chưa coi công tác vận động quần chúng là nhiệm vụ chiến lược.
Mặc dù đứng trước những diễn biến phức tạp của các nước Đông Âu, nhất là sau sự kiện Liên xô sụp đổ, nhưng đại bộ phận cán bộ, đảng viên trong đảng bộ luôn khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường đúng đắn, tuyệt đối tin tưởng vào vai trò lãnh đạo của Đảng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, hầu hết đảng viên trong đảng bộ đều không chấp nhận đa nguyên đa đảng, hiểu được âm mưu của các lực lượng thù địch chống chủ nghĩa xã hội và luôn có ý thức cảnh giác chính trị trong toàn đảng bộ.
Trong quá trình thực hiện nghị quyết Đại hội II của huyện, tình hình quốc tế vẫn còn diễn biến phức tạp, ở trong nước, trong tỉnh, trong huyện vẫn chưa ra khỏi khủng hoảng; tình hình kinh tế xã hội của huyện tuy có phát triển, nhưng thiếu toàn diện. Do qui hoạch và kế hoạch cũng như chỉ đạo phát triển kinh tế biển chưa tốt nên khai thác còn tự phát, tiêu thụ hàng hóa phần nhiều còn dạng thô, thị trường tiêu thụ còn nhiều khó khăn.
Tuy công nghiệp quốc doanh được sắp xếp lại, làm ăn có hiệu quả, chiếm 11,45% giá trị tổng sản lượng công nghiệp, nhưng sản xuất phát triển thiếu đồng bộ, chưa đủ sức chế biến các nguyên liệu từ hải sản của địa phương, chất lượng sản phẩm làm ra chưa cao, nhất là mặt hàng nước mắm.
Năm 1990, nông nghiệp của huyện phát triển khá, các loại cây ăn trái, cây công nghiệp dài ngày được mở rộng. Diện tích, sản lượng các loại rau màu khác giữ được ở mức ổn định, đủ cung cấp cho nhân dân trên các đảo vào mùa mưa, góp phần chống xói mòn, giữ nguồn nước ngọt, bảo vệ môi sinh, môi trường trên các đảo.
Năm 1991, vốn đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng chiếm tỷ lệ 15% trong tổng chi ngân sách. Trong thời gian này, Huyện ủy và Ủy ban nhân dân huyện đã cho sửa chữa, chống xuống cấp cầu cảng Hòn Tre và Nam Du.
Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện thường xuyên chỉ đạo các đơn vị khắc phục khó khăn về ngân sách, khai thác các nguồn thu ngoài quốc doanh. Củng cố và tăng cường cán bộ cho Chi cục thuế, quan tâm đến ngân sách xã. Giải quyết kịp thời tiền lương và những nhu cầu chi phục vụ cho nhiệm vụ chính trị của đảng bộ, giảm các khoản thu chi bao cấp và lãng phí, làm tốt nghĩa vụ đối với tỉnh.
Năm 1991, ngân sách các cấp cân đối được thu chi, các hoạt động tài chánh có nền nếp hơn. Hoạt động ngân hàng có tiến bộ, bước đầu đã thu hút được nhiều nguồn vốn phục vụ cho sản xuất, hoạt động tín dụng có hiệu quả hơn.
Tuy nhiên, cái khó khăn nhất trong giai đoạn này vẫn là Đảng bộ chưa lường hết những diễn biến phức tạp của cơ chế thị trường, nhất là trong lĩnh vực quản lý và tiêu thụ sản phẩm. Việc phát huy tính chủ động của đơn vị kinh tế quốc doanh và cơ sở là đúng, nhưng từng lúc còn buông lỏng công tác kiểm tra, kiểm soát. Xử lý không nghiêm nên một số đơn vị và cơ sở lợi dụng cơ chế để buôn bán làm ăn sai trái, tiêu cực, dẫn đến thua lỗ gây hậu quả nghiêm trọng.
Năm 1990, nhà ở trên các đảo, nhất là Hòn Tre, Hòn Nghệ và Củ Tron được xây dựng nhiều hơn trước, tỷ lệ nhà kiên cố, bán kiên cố tăng nhanh, từ 15 đến 20%.
Theo Báo cáo năm của Huyện ủy Kiên Hải thì
“... Dịch vụ điện thắp sáng, giao thông vận tải, tiện nghi sinh hoạt trong gia đình tăng thêm, việc đi lại dễ dàng hơn trước, đời sống tinh thần được cởi mở và thoải mái hơn, nhất là mức hưởng thụ văn hóa, văn nghệ tăng thêm, dân chủ xã hội chủ nghĩa được mở rộng cả trong sinh hoạt và làm ăn trong pháp luật”.
Đời sống và thu nhập của đại bộ phận nhân dân nhìn chung được nâng lên, nhưng vẫn còn 10% số hộ có mức thu nhập thấp. Số trẻ em suy dinh dưỡng còn nhiều. Nhà cửa xiêu vẹo, ăn ở không hợp vệ sinh vẫn còn, điện thắp sáng và nước ngọt cho sinh hoạt còn thiếu và khó khăn ở một số đảo.
Báo cáo chính trị Đại hội Đại biểu lần thứ II của huyện đã đánh giá “...Công tác bảo vệ sức khỏe cho nhân dân trong nhiệm kỳ qua được chú trọng và đạt kết quả khá. Tuy cơ sở vật chất còn nhiều thiếu thốn, nhưng cố gắng dập tắt được ổ dịch và từng bước nâng cao chất lượng điều trị. Công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu có tiến bộ, tiêm chủng mở rộng cho trẻ em được ngành y tế thực hiện tốt, giảm được tỉ lệ trẻ em chết dưới 1 tuổi xuống mức thấp nhất.
Hoạt động văn hóa nghệ thuật, thông tin có tiến bộ, phong trào văn nghệ quần chúng ở cơ sở được duy trì và có chất lượng. Mạng lưới thông tin truyền nhanh trong huyện được mở rộng, đáp ứng một bước nhu cầu tăng lên của nhân dân.
Nhưng, mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân chưa nhiều, công tác thông tin tuyên truyền có hạn chế, chưa đảm bảo lượng thông tin kịp thời đến người dân trên các đảo. Lãnh đạo và quản lí chưa được chặt chẽ, chưa có biện pháp kiên quyết để chống văn hóa phẩm độc hại, đi đôi với tăng cường giáo dục lối sống và con người mới xã hội chủ nghĩa”.
Trong các năm 1990, 1991, công tác quốc phòng và an ninh trên địa bàn huyện được giữ vững và tăng cường. Nhiều xã, ấp có thành tích trong phong trào xây dựng quốc phòng toàn dân, dân quân tự vệ, truy quét tội phạm hình sự.
Năm 1991, công tác gọi thanh niên lên đường nhập ngũ vượt chỉ tiêu trên giao.
Thiếu sót của công tác quân sự địa phương trong giai đoạn này là: chất lượng của lực lượng vũ trang còn có những mặt chưa đáp ứng với yêu cầu tình hình nhiệm vụ mới. Sức chiến đấu, trình độ sẵn sàng chiến đấu chưa cao. Công tác quản lí và huấn luyện lực lượng dự bị động viên và dân quân tự vệ còn hạn chế.
Phong trào quốc phòng toàn dân chưa được đẩy mạnh thường xuyên, việc vận hành cơ chế mới trong nhiệm vụ quốc phòng và công tác quân sự địa phương ở cơ sở thiếu chặt chẽ và chưa đồng bộ, vai trò tham mưu của cơ quan xã hội còn hạn chế.
Trên lĩnh vực an ninh trật tự, các cấp, các ngành đã tích cực phòng ngừa, liên tục phát động quần chúng tấn công kẻ địch, trấn áp bọn tội phạm.
Ngày 12 tháng 9 năm 1991, Huyện ủy đã mở hội nghị bàn về công tác an ninh trật tự, đại biểu các xã, ngành đều cho rằng: “...Cần tập trung chỉ đạo giải quyết kịp thời các vụ việc phức tạp, ngăn chặn có hiệu quả những âm mưu gây rối và người trốn ra nước ngoài, bảo vệ tốt nội bộ, tích cực đấu tranh chống buôn lậu, bài trừ một số tệ nạn xã hội, giữ vững an ninh trật tự và an toàn xã hội trong huyện”.
Theo đánh giá của Huyện ủy, nhờ tích cực bồi dưỡng, đào tạo lực lượng công an các cấp, nên lực lượng công an của huyện nhìn chung vẫn vững vàng, có năng lực nghiệp vụ, quan điểm phục vụ quần chúng nhân dân thể hiện khá rõ.
Cũng theo đánh giá trên, năm 1991, công tác nắm tình hình, chủ động tấn công và phòng ngừa tội phạm có lúc còn bị động, hiệu quả chưa cao. Lực lượng công an chưa đáp ứng kịp thời tình hình nhiệm vụ, nhất là trình độ chính trị, nghiệp vụ, pháp luật còn yếu; bên cạnh đó, phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc phát triển chưa đều, lực lượng công an cơ sở chưa đủ sức tham mưu cho cấp ủy về phong trào này.
Trong năm 1991, Huyện ủy và các chi ủy cơ sở đã cố gắng chỉ đạo việc tuyên truyền giáo dục pháp luật trong nhân dân với nhiều hình thức, đồng thời chỉ đạo tốt bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp và các đoàn thể; tổ chức quần chúng góp ý phê bình cán bộ, đảng viên, xem đây là điều kiện để phát huy dân chủ trong nhân dân.
Trong sinh hoạt lệ ở tất cả các chi bộ khối đảng, chánh quyền, sinh hoạt của các đoàn thể từ huyện đến cơ sở, không khí thảo luận cởi mở, thẳng thắn được đề cao, nhiều cán bộ đảng viên, hội viên đoàn thể đã mạnh dạn phê phán những sai lầm khuyết điểm của cấp ủy và lãnh đạo các cấp, nhiều chủ trương của Huyện ủy được cán bộ, đảng viên và hội viên các đoàn thể góp ý trước khi Huyện ủy quyết định.
Tuy nhiên, quyền làm chủ của nhân dân chưa được phát huy đầy đủ, một số chính sách pháp luật chưa được phổ biến rộng rãi và thực hiện tốt. Bên cạnh đó cũng còn nhiều vấn đề thuộc về cơ chế, chính sách chưa được cụ thể hóa để đảm bảo thực hiện quyền dân chủ.
Việc thành lập riêng cơ quan Thường trực Hội đồng nhân dân huyện và xã tuy bước đầu có lúng túng, nhưng qua một thời gian, hoạt động của Hội đồng nhân dân đã đi dần vào nề nếp, phát huy được vai trò của cơ quan dân cử. Các đại biểu Hội đồng nhân dân huyện xã đã thực hiện quyền giám sát và chất vấn hoạt động của các cơ quan ban ngành huyện, xã.
Đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp thường xuyên tiếp xúc với cử tri, tập hợp được nhiều ý kiến của nhân dân để kiến nghị lên trên hoặc đưa ra thảo luận trong các kỳ họp. Kịp thời bãi miễn những đại biểu Hội đồng nhân dân huyện và xã sai phạm: 1 đại biểu Hội đồng nhân dân huyện và 2 đại biểu Hội đồng nhân dân xã.
Ủy ban Nhân dân huyện và xã từng bước vươn lên quản lý xã hội bằng pháp luật, xử lý ngày càng có hiệu quả nhiều vấn đề khó khăn mà thực tiễn đặt ra, nhất là giải quyết cơ bản các vấn đề về kinh tế-xã hội.
Năm 1990, huyện thực hiện việc tinh giảm biên chế trong bộ máy hành chính của huyện, từ 7 phòng, ban với 97 cán bộ, giảm xuống còn 4 phòng ban với 38 cán bộ. Sau khi kiện toàn, các hoạt động vẫn đúng chức năng và có hiệu quả.
Trong năm, các cơ quan tòa án, thanh tra, kiểm sát cũng được chấn chỉnh kiện toàn. Các cơ quan này có cải tiến nội dung và phương pháp điều tra, xét xử đảm bảo đúng người, đúng tội. Tuy nhiên, một vài trường hợp, công tác xét xử có mặt chưa kịp thời, án dân sự còn tồn đọng lớn. Đội ngũ cán bộ xét xử còn thiếu và yếu. Một số cán bộ còn yếu về tinh thần trách nhiệm, thiếu kiến thức pháp luật.
Kinh tế của huyện phụ thuộc cơ bản vào ngành khai thác hải sản, trong khi ngư trường gần bờ có nguy cơ cạn kiệt, phương tiện nhỏ khai thác kém hiệu quả, nghề thủ công mỹ nghệ hầu như không có, thương nghiệp dịch vụ phát triển chậm, hạ tầng cơ sở còn thấp kém, nông nghiệp phát triển quy mô nhỏ, diện tích đất canh tác ít, điều kiện chăn nuôi cũng rất khó khăn… Tất cả những yếu tố đó, đã làm cho số lao động thiếu việc làm và không có việc làm ngày càng tăng.
Tháng 7 năm 1991, Huyện ủy họp mở rộng dưới sự chủ trì của đồng chí Trần Văn Tố, Bí thư Huyện ủy để thông qua quy hoạch lâm nghiệp của huyện do Sở Nông lâm Thủy lợi của tỉnh kết hợp với huyện tiến hành khảo sát và thiết lập vào giữa năm 1991. Đây là bản quy hoạch đầu tiên, đánh dấu sự nhận thức mới trong Đảng bộ về phát triển kinh tế rừng kết hợp với kinh tế biển. Bản quy hoạch nêu:
“Những yếu tố sinh thái, môi trường ở huyện đảo Kiên Hải, có liên quan chặt chẽ tới duy trì và phát triển sự sống của cộng đồng xã hội, và sự phát triển phồn vinh lâu bền, không riêng đối với Kiên Hải, mà đối với quốc gia, đối với khu vực quốc tế. Huyện đảo Kiên Hải phải được phát triển kinh tế xã hội trên nền tảng Lâm nghiệp giữ vai trò điều tiết, chủ đạo duy trì bền vững”
Theo thống kê của Sở Nông lâm-Thủy lợi của tỉnh, nguồn tài nguyên thiên nhiên quan trọng trên những núi đảo của Kiên Hải chủ yếu là rừng, nhưng đến thời điểm này, thì rừng chỉ còn che phủ được 27% diện tích đất tự nhiên, nhiều loài động vật hoang dã như chim, thú, bò sát, lưỡng thê còn rất ít…
Các loài cây ăn trái lưu niên như xoài, mít, dừa…diện tích còn khoảng 9% tổng diện tích đất đai tự nhiên của huyện, một số loài nhập nội như phi lao, bạch đàn, keo lá tràm không nhiều.
Đặc biệt với những khu rừng trung bình ở Củ Tron (xã An Sơn) và trên núi Lại Sơn cần có biện pháp bảo vệ hữu hiệu, không cần chờ đợi phương án qui hoạch được phê chuẩn pháp lí. Rừng hiện còn ở bất cứ trạng thái nào đều thuộc diện rừng đặc trưng, và đồng thời có ý nghĩa phòng hộ của toàn bộ hải đảo (kể cả đảo lớn, đảo nhỏ), bảo vệ nguồn nước ngọt, ngăn chặn xói mòn sụt lở…”.
Ngay sau đó, Chỉ thị này đã được các xã triển khai rộng rãi trong nhân dân, Ban Chấp hành Huyện ủy đã chỉ đạo các xã tiến hành những biện pháp cụ thể để thực hiện các bước trong quy hoạch.
3. Kiên Hải trong thời kỳ 1991 - 1995
Bước vào những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, tình hình quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp. Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ đã có những tác động không tốt đến tình hình chính trị trong nước. Các thế lực thù địch thực hiện âm mưu diễn biến hòa bình nhằm phá hoại công cuộc đổi mới của đất nước và tiến đến xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng. Trong thời điểm này, đất nước ta vẫn chưa ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, thế nhưng về ổn định chính trị của ta được giữ vững. Đây là một trong những tiền đề quan trọng cho Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục lãnh đạo nhân dân thực hiện con đường ổn định, đổi mới để phát triển.
Đối với Kiên Hải, qua 5 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, huyện thu được nhiều thành quả trên các lãnh vực rất khả quan.Tình hình sản xuất và đời sống nhân dân được cải thiện, lòng tin của các tầng lớp quần chúng vào công cuộc đổi mới tăng lên. Tuy nhiên, tình hình kinh tế - xã hội nhìn chung vẫn còn nhiều khó khăn, có những mặt khá gay gắt. Trên địa bàn huyện nhiều vấn đề bức xúc cấp thiết đặt ra phải giải quyết như: nguồn vốn, cơ cấu kinh tế, cơ cấu sản xuất của từng ngành chưa phù hợp với cơ chế đổi mới; đời sống và việc làm cho người lao động; công tác quản lý xã hội nhiều mặt chưa theo kịp với yêu cầu... Bước vào giai đoạn mới, Đảng bộ huyện khắc phục những yếu kém, đồng thời kế thừa, phát huy những thành quả đạt được, tiếp tục đưa huyện nhà tiến vững chắc dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước trong tình hình có nhiều cơ hội lẫn thách thức để phát triển.
Ngày 11 tháng 11 năm 1991, Đảng bộ huyện đã tiến hành Đại hội lần thứ III, nhiệm kỳ 1991-1995. Đại hội đã cụ thể hóa việc thực hiện đường lối Đại hội VII của Đảng và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ V.
Đại hội đã bầu đồng chí Huỳnh Văn Gành, làm Bí thư Huyện ủy (đến tháng 03 năm 1993 được điều về tỉnh); Đoàn Văn Tiết, Ủy viên Ban Thường vụ, Thường trực Huyện ủy, Chủ tịch Hội đồng Nhân dân; Trần Công Lập, Phó Bí thư, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân huyện.
Đại hội đã kiểm điểm tình hình qua 3 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội II và các nghị quyết của Trung ương, của tỉnh, nhằm tiếp tục khẳng định và phát huy những mặt làm được, làm tốt, chỉ ra những mặt tồn tại, yếu kém và những khó khăn vướng mắc cần khắc phục. Trên cơ sở đó, đề ra nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu, nhằm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội III của Đảng bộ huyện, Nghị quyết Đại hội đảng bộ tỉnh lần thứ V và Nghị quyết Đại hội lần thứ 8 của Đảng.
Từ năm 1991 đến 1995, tổng sản phẩm của huyện tăng 12%, thu nhập quốc dân tăng 14%. Thu nhập bình quân đầu người tăng 17% (2.000.000 đ/người/năm).
Về chế biến, trong 5 năm chế biến được 25.000 tấn hải sản các loại như (tôm luộc, thịt ghẹ, mực khô, cá xuất khẩu) sản xuất được 8 triệu lít nước mắm. Tổng doanh số các mặt hàng hải sản trị giá 300 tỷ đồng.
Xuất hiện các hình thức nuôi trồng thủy sản mới như: nuôi cá bằng lồng bè, cho cá đẻ bằng phương pháp nhân tạo, bước đầu đã tăng hiệu quả kinh tế cho nhiều gia đình.
Sản xuất đánh bắt hải sản được Đảng bộ xác định là thế mạnh hàng đầu, nên nhiều năm Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện đã tập trung dồn sức chỉ đạo đóng mới nhiều tàu thuyền có công suất lớn, có khả năng khai thác hải sản dài ngày trên biển.
Nhân dân trong huyện đã mạnh dạn đầu tư trên 200 tỷ đồng để đóng mới 152 phương tiện với công suất 10.600 mã lực.
Các xã quan tâm chỉ đạo, hướng dẫn nhân dân trên các đảo cải tạo vườn tạp, trồng cây ăn trái, cây lấy gỗ, bảo vệ và khôi phục rừng đầu nguồn nên đến cuối năm 1993, toàn huyện có 281 ha trồng cây ăn trái, các loại rau xanh (vào mùa mưa). Đất Lâm nghiệp của huyện còn 2.500 ha, cấp ủy, chính quyền đã lập trại giống
55 ha ở Hòn Nghệ để cung cấp cây giống cho các đảo.
Để thực hiện chủ trương giao đất, giao rừng cho nhân dân, bộ máy quản lý ngành Lâm nghiệp đã được củng cố và đi vào hoạt động có hiệu quả, công tác quản lý rừng đầu nguồn, mở rộng diện tích rừng được quan tâm hơn.
Năm 1991 có 203 hộ kinh doanh thương nghiệp, năm 1993 có 235 hộ, doanh số mua vào bán ra khoảng 36 tỷ đồng /năm, cơ bản đã cung cấp khá đầy đủ các mặt hàng thiết yếu phục vụ cho sản xuất và tiêu dùng của nhân dân trên các đảo.
Những năm 1990, nhân dân các đảo đã đầu tư gần 10 tỷ đồng để xây dựng nhà ở, làm đường đi quanh hòn, cầu qua suối.
Vấn đề Ngân sách, có sự tăng trưởng nhanh, đạt và vượt kế hoạch trên giao, năm sau cao hơn năm trước, huy động sự đóng góp trong nhân dân theo quy định của pháp luật thông qua chính sách thuế ngày một đi vào nền nếp hơn. Năm 1991 thu ngân sách đạt 1,2 tỷ đồng, năm 1995 thu 5 tỷ 180 triệu đồng, vượt chỉ tiêu 31% (chỉ tiêu thu ngân sách do Đại hội Đảng bộ lần thứ III đề ra).
Ngân hàng hỗ trợ cho nhân dân tổ chức sản xuất như đóng mới, sửa chữa tàu và mua sắm phương tiện mới để tăng năng lực sản xuất. Tỷ lệ đầu tư cho vay ưu đãi trong đánh bắt hải sản trong năm này chiếm 80%, dịch vụ thương nghiệp chiếm 6%, vay ưu đãi cho các hộ nghèo chiếm 14%.
Tổng số vốn đầu tư cơ bản cho các ngành kinh tế của huyện trong những năm vừa qua tăng rất cao (khoảng 300 tỷ đồng gấp 2 lần GDP của huyện). Trong đó đầu tư vào ngành hải sản 220 tỷ, thương nghiệp, dịch vụ nông lâm nghiệp là 80 tỷ đồng. Đầu tư mạnh, nên năng lực sản xuất của ngành đều tăng nhanh.
Đánh bắt hải sản phát triển với tốc độ nhanh, giá cả thị trường tương đối ổn định nên đời sống nhân dân trên các đảo tiếp tục được cải thiện, số hộ có từ 2 đến 4 phương tiện đánh bắt ngày càng tăng. Số hộ nghèo, nhất là hộ đói ăn đã giảm, những yêu cầu cơ bản về ăn mặc, việc làm được đáp ứng khá hơn.
Việc xây dựng nhà ở trong nhân dân, xây dựng sửa chữa trụ sở cơ quan, trường học từ huyện đến xã, xây dựng sửa chữa đường đi quanh hòn, cầu thông qua suối, hệ thống điện, giếng nước đào, cầu tiêu tự hủy được quan tâm hơn và có sự phát triển rõ rệt.
Đội ngũ giáo viên ngày càng được tăng cường và nâng lên về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, chất lượng dạy và học có tiến bộ rõ rệt. Công tác xã hội hóa giáo dục được các cấp ủy và chính quyền quan tâm.
Cơ sở vật chất trường học được đầu tư khá hơn trước, số phòng học kiên cố và bán kiên cố tăng từ 61% năm 1991, lên 81,3% năm 1995.
Trong các năm, công tác bảo vệ sức khỏe, tăng cường thể lực cho nhân dân được các ngành chức năng chú trọng, mặc dù là địa bàn huyện đảo, nhưng các cấp chính quyền đã thực hiện tốt các chương trình y tế quốc gia như, trẻ dưới 1 tuổi được tiêm chủng miễn dịch cơ bản. Chương trình chăm sóc trẻ em đã được triển khai toàn diện và đạt kết quả cao. Tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng đã giảm đáng kể từ 38% năm 1991 xuống còn 35% năm 1995.
Y tế được củng cố cơ sở vật chất; tinh thần thái độ phục vụ đối với người bịnh có tiến bộ, dịch sốt rét, sốt xuất huyết đã giảm nhiều so với những năm trước đây, phong trào thể dục thể thao có bước phát triển khá góp phần đáng kể nâng cao thể lực cho nhân dân.
Công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình được quan tâm, số người áp dụng các biện pháp tránh thai tăng cao từ 36,5% năm 1991, lên 43,9% năm 1995, giảm tỷ lệ tăng dân số từ 2,9 năm 1991, xuống còn 2,18 năm 1995.
Phong trào đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn được chú trọng như: vận động quỹ chăm sóc Bà mẹ Việt Nam anh hùng được 75 triệu đồng; công tác xóa đói giảm nghèo được Đảng bộ và Nhà nước quan tâm tạo điều kiện giúp đỡ vốn và việc làm để từng bước xóa hẳn các hộ đói nghèo…
Các tổ chức đoàn thể và ngân hàng đã cho các hộ nghèo vay trên 1 tỷ đồng để tạo vốn làm ăn, bước đầu nhiều hộ gia đình đã thoát được nghèo, có cuộc sống ổn định.
Hoạt động văn hóa, văn nghệ thể dục thể thao đa dạng hơn, góp phần giải quyết yêu cầu hưởng thụ văn hóa của nhân dân. Hệ thống truyền thanh của huyện có bước phát triển, năm 1991 toàn huyện chỉ duy nhất có 1 đài truyền thanh thì đến năm 1995 có 4 trạm truyền thanh ở các xã, năm 1991 không có trạm tiếp sóng truyền hình đến năm 1995 có 2 trạm tiếp sóng truyền hình phục vụ cho nhân dân 2 xã, xem được chương trình, Báo Kiên Giang được phát hành tận các ấp trong huyện.
Nắm vững những quan điểm chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước về công tác an ninh-trật tự trong tình hình mới, các năm qua Đảng bộ đã lãnh đạo quần chúng tham gia tấn công, trấn áp các loại tội phạm hình sự, kịp thời giải quyết các vụ việc phức tạp, đấu tranh chống tệ nạn xã hội, giữ vững an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội.
Thường xuyên tổ chức họp giao ban giữa các ngành trong khối nội chính. Trong năm đã đưa ra truy tố xét xử hình sự 29 vụ, đạt tỷ lệ 89%, xét xử dân sự 113 vụ, đạt 93%. Công tác thi hành án thu được 254 triệu trả lại cho Nhà nước và công dân. Thụ lý giải quyết được 150 đơn yêu cầu khiếu nại, tố cáo của công dân.
Năm 1995, công tác phát triển đảng viên mới đã được các cấp ủy Đảng cơ sở có quan tâm hơn, đã kết nạp được 80 đồng chí, đưa tổng số đảng viên của Đảng bộ lên 175 đồng chí.
Huyện ủy tập trung xây dựng cơ sở trong sạch, vững mạnh và nâng cao chất lượng Đảng. Thông qua kiểm điểm phân loại cuối năm, các cấp ủy xây dựng chương trình phấn đấu khắc phục yếu kém để hết nhiệm kỳ đạt cơ sở trong sạch vững mạnh và chi bộ khá.
Năm 1994 có 14 tổ chức cơ sở Đảng, trong đó có 7 chi bộ trong sạch vững mạnh và 7 chi bộ cơ sở khá.
Điều kiện vệ sinh môi trường ở một số nơi chưa đảm bảo, nước sinh hoạt ở một số đảo còn khó khăn, cơ sở y tế, phương tiện khám chữa bệnh xuống cấp chưa đủ sức phục vụ dân trên đảo. Học sinh đến trường ngày càng tăng nhưng đến cấp 2, cấp 3 thì tỉ lệ tiếp tục học lên còn rất thấp (khoảng 20% tiếp tục học lên cấp 2, 5% tiếp tục học lên cấp 3).
Công tác xóa mù chữ chưa thực hiện được, cơ sở vật chất dạy và học của giáo viên và học sinh còn thiếu thốn. Trên lĩnh vực văn hóa-xã hội, phim ảnh băng nhạc ngoài luồng phát hành chưa được quản lý chặt chẽ.
Ý thức cảnh giác trong một bộ phận cán bộ đảng viên và một bộ phận nhân dân trước âm mưu hoạt động “diễn biến hòa bình” của địch chưa cao. Phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc phát triển chưa đều, công tác quản lý người tạm trú, tạm vắng còn nhiều sơ hở. Vi phạm pháp luật và tội phạm trong xã hội còn nhiều, trật tự an toàn giao thông còn xảy ra những vụ nghiêm trọng.
Ở Lại Sơn, An Sơn dân tạm trú lúc này đông hơn dân thường trú, từ đó nảy sinh một số tệ nạn xã hội, nhất là nạn mại dâm đã xuất hiện ở 2 xã đảo này.
Công tác phòng ngừa và tấn công các loại tội phạm, giữ gìn trật tự và tệ nạn xã hội chưa theo kịp yêu cầu trong tình hình mới, trang bị phương tiện đi lại và thông tin liên lạc cho lực lượng an ninh còn thiếu, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ biển, đảo trong tình hình mới.
Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các cơ sở Đảng được nâng lên nhưng chưa ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ mới có nơi còn yếu kéo dài. Công tác phát triển đảng viên chưa được quan tâm đúng mức nhất là ở xã ấp. Tổ chức bộ máy còn thiếu và yếu, đội ngũ cán bộ nhất là cán bộ chủ chốt còn thiếu, việc quy hoạch cán bộ còn nhiều khó khăn.
Công tác quản lý chính quyền từ huyện đến xã được củng cố nâng lên nhưng còn thấp so với yêu cầu. Năng lực tổ chức thực hiện từng lúc từng nơi chưa nhạy bén, phát hiện và xử lí những vấn đề mới phát sinh. Việc tuyên truyền phổ biến chính sách pháp luật thiếu thường xuyên, sâu rộng. Hệ thống các cơ quan bảo vệ pháp luật chưa đủ sức đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
Mặt trận và các đoàn thể quần chúng nhân dân có tiến bộ nhưng vẫn chưa ra khỏi tình trạng lúng túng về nội dung và phương thức hoạt động, cán bộ chủ chốt làm công tác đoàn thể còn thiếu và yếu về năng lực, mối quan hệ phối hợp giữa chính quyền với Mặt trận và các đoàn thể từng lúc, từng nơi chưa chặt chẽ.
Những yếu kém, tồn tại trên có nguyên nhân khách quan như cơ sở hạ tầng của huyện yếu kém lạc hậu, điều kiện tự nhiên trên vùng biển, hải đảo có nhiều khó khăn, nhưng về mặt chủ quan đáng quan tâm là năng lực lãnh đạo của Đảng bộ, nhất là năng lực tư duy và tổ chức thực hiện của các cấp ủy đảng, trước hết là của Huyện ủy, ủy ban nhân dân huyện chưa tương xứng với yêu cầu tình hình mới.
Trong 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VII của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ V và các Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương, Đảng bộ và quân dân trong huyện Kiên Hải đoàn kết nhất trí phấn đấu phát huy ưu điểm tiếp tục đưa nền kinh tế - xã hội của huyện phát triển thêm một bước mới khá toàn diện và vững chắc hơn.
Số hộ trong diện đói nghèo đã giảm từ 9,6% xuống còn 3,1%. Các yêu cầu cơ bản của nhân dân không ngừng được quan tâm và tạo điều kiện để phát triển nâng lên.
Hệ thống bưu điện, thông tin liên lạc, cầu cảng, khoan cây nước, đường đi quanh các hòn, trụ sở làm việc của các cơ quan huyện, xã được xây dựng, nâng cấp, sửa chữa…
Tháng 12 năm 1995, Ban Chấp hành Đảng bộ họp đánh giá tình hình của huyện trong năm 1995 như sau:
“Nhìn chung tình hình của huyện trong năm vừa qua tiếp tục được củng cố và giữ vững sự ổn định về kinh tế xã hội, tạo tiền đề cho bước phát triển tiếp theo. Những thành tích trên chủ yếu là do tình hình chính trị kinh tế trong nước và trong tỉnh ổn định.
Bên cạnh đó các cấp ủy đảng từ huyện đến xã đã vận dụng sáng tạo đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, đề cao trách nhiệm trước nhân dân, phát huy tinh thần tự lực, tự cường, năng động sáng tạo, biết phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, các ngành các cấp. Nhưng sự lãnh đạo Huyện ủy vẫn chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ, vấn đề nắm tình hình, thông tin phục vụ cho cấp ủy, chính quyền các cấp xử lý còn chậm và còn có những lúc chưa chính xác.
Bản lĩnh lãnh đạo và tính sáng tạo trong cơ chế mới nâng lên còn chậm, những quyết định năng động để tranh thủ thuận lợi, khắc phục khó khăn làm còn chậm, từng lúc, từng nơi thiếu sâu sát thực tiễn. Tinh thần trách nhiệm hiệu quả công tác của một số đồng chí trong Ban Chấp hành chưa cao”.
4. Kiên Hải trong thời kỳ 1996 - 2000
Thời kỳ này có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với đất nước và tỉnh Kiên Giang. Qua thực tiễn cho thấy đường lối đổi mới do Đảng lãnh đạo đã tiếp tục gặt hái nhiều thành quả quan trọng. Công cuộc đổi mới của đất nước, của tỉnh phát triển theo chiều hướng thuận lợi: kinh tế tăng trưởng khá, quan hệ quốc tế rộng mở, nguồn lực phát triển thu hút đầu tư bên ngoài, nội lực ngày càng mạnh, tình hình quốc phòng và an ninh chính trị được giữ vững, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện, khối đoàn kết dân tộc được củng cố. Trung ương Đảng xác định tiếp tục đưa đất nước phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Kiên Hải vốn có thuận lợi là nằm trong khu vực kinh tế biển trọng điểm của tỉnh, có lợi thế phát triển hải sản và dịch vụ. Tiềm năng đất đảo thích hợp cho phát triển đa dạng ngư - lâm - nông nghiệp và dịch vụ; huyện có nguồn tài nguyên phong phú, tạo thành nguồn nguyên liệu cho công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp. Trình độ văn hóa, khoa học kỹ thuật trong nhân dân và đội ngũ cán bộ đang được nâng lên; trong sản xuất kinh doanh đang xuất hiện nhiều điển hình làm ăn năng động, thích ứng với cơ chế mới. Các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể thực sự cầu tiến, tích lũy được nhiều kinh nghiệm. Bên cạnh những thuận lợi, tình hình chung của huyện cũng còn những khó khăn. Kinh tế địa phương có mặt phát triển chưa đồng bộ, trình độ khoa học công nghệ thấp; năng suất, chất lượng, hiệu quả và cơ sở hạ tầng kém, tích lũy từ nội bộ chưa mạnh. Đời sống một bộ phận nhân dân còn nhiều khó khăn, đội ngũ cán bộ còn nhiều mặt chưa ngang tầm với nhiệm vụ.
Quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VI, huyện Kiên Hải tổ chức Đại hội lần thứ IV vào ngày 29 tháng 3 năm 1996.
Căn cứ tình hình của huyện, Đại hội Đảng bộ huyện đề ra phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ chung trong giai đoạn 1996 - 2000 là: “Tiếp tục tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy ý chí tự lực tự cường, tinh thần năng động, sáng tạo, nắm bắt, dự đoán được tình hình, đẩy lùi được nguy cơ, vượt mọi khó khăn, tận dụng các cơ hội và thuận lợi mới, khai thác hiệu quả các nguồn lực sẵn có, kết hợp tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài, quán triệt và thực hiện nghiêm túc đường lối đổi mới toàn diện của Đảng, tạo sự chuyển biến đồng bộ, toàn diện trên mọi lĩnh vực kinh tế và đời sống. Đưa cơ cấu kinh tế ngư - lâm - nông nghiệp - dịch vụ phát triển một bước mới, nhiệm vụ trung tâm của kinh tế là công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, tích cực chuẩn bị các điều kiện để xây dựng Kiên Hải là địa bàn ngư nghiệp và dịch vụ sau năm 2000. Bảo đảm hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với giải quyết các vấn đề văn hoá - xã hội. Giữ vững quốc phòng và an ninh, bảo đảm trật tự an toàn xã hội và ổn định chính trị, nhiệm vụ then chốt là xây dựng Đảng bộ vững mạnh, đảm bảo đủ sức lãnh đạo thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị ”.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành gồm 20 đồng chí; đồng chí Trần Công Lập được bầu làm Bí thư Huyện ủy; đồng chí Đoàn Văn Tiết, Phó Bí thư, kiêm Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện; đồng chí Trần Mười Lớn, Ủy viên Thường trực Huyện ủy.
Đại hội nhất trí đánh giá: “Trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới của Đảng, trải qua những thành công và vấp váp, cọ sát và sàng lọc, Đảng bộ huyện Kiên Hải đã trưởng thành, cơ chế quản lý mới mỗi ngày được bổ sung và hoàn thiện hơn. Đảng bộ đã có một số chủ trương đúng đắn trong lĩnh vực kinh tế, nhất là sản xuất ngư nghiệp.
Tuy nhiên, kết quả đạt được trên các lĩnh vực kinh tế còn hạn chế, thiếu vững chắc, chưa ổn định và phát triển còn mới mẻ. Nguyên nhân của sự yếu kém là do chúng ta còn thiếu kiến thức và kinh nghiệm về lãnh đạo quản lý kinh tế theo cơ chế mới đối với nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Mặt khác, trong chỉ đạo thực hiện, về chủ quan, huyện chưa quan tâm đầy đủ công tác xây dựng phát triển đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế để đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ mới”.
Về chính sách kinh tế nhiều thành phần, Đảng bộ đã quán triệt và vận dụng ngày càng phù hợp với tình hình địa phương, nhân dân tin tưởng, mạnh dạn đầu tư vào sản xuất. Kinh tế tư nhân, kinh tế cá thể phát triển nhanh, nhất là trên lĩnh vực khai thác chế biến hải sản và dịch vụ.
Từ năm 1996 đến 2000, ngân hàng cho 550 hộ vay sản xuất với số tiền 14 tỷ 500 triệu đồng, cho vay ưu đãi 700 hộ nghèo với số tiền 2,2 tỷ đồng. Nhìn chung, các hộ sử dụng vốn phần lớn làm ăn có hiệu quả.
Năm 1999 huy động và cho nhân dân vay 5,8 tỷ đồng để hỗ trợ phát triển sản xuất ngư nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ.
Theo báo cáo của ngân hàng, đến cuối năm 1999, nhiều hộ vay vốn khắc phục hậu quả của cơn bão số 5 và vay vốn làm ăn có hiệu quả, nhưng cố tình không trả vốn, trả lãi cho Nhà nước, làm ảnh hưởng đến công tác kinh doanh của Ngân hàng, huyện chưa có biện pháp xử lý.
Thu ngân sách địa phương trong 5 năm đạt 16,5 tỷ đồng, tăng bình quân hàng năm từ 30-40%.
Huyện có những biện pháp thích hợp để khai thác và tạo nguồn thu ngân sách nên mỗi năm đều tăng, tỷ lệ huy động ngân sách từ tổng sản phẩm xã hội trong huyện (GDP) từ 3,3% năm 1999 lên 8,16% năm 2000, đáp ứng được yêu cầu chi hợp lý, cần thiết và tiết kiệm của huyện.
Cuối năm 1997, nhiều cơ sở, hộ kinh doanh còn nợ thuế kéo dài. Ngân sách còn bỏ sót nguồn thu, các nguồn thu mới, thu chưa kịp thời. Việc nuôi dưỡng nguồn thu chưa được quan tâm đúng mức.
Hải sản, trong 5 năm 1996 – 2000, phát triển khá, nhất là trên lĩnh vực khai thác hải sản và dịch vụ nghề cá.
Sản lượng khai thác tăng qua các năm, từ 26.000 tấn năm 1996 lên 39.200 tấn năm 1997; tăng gần 1,5 lần. Sản lượng tôm đánh bắt năm 1996 là 4.608 tấn, đến năm 1997 đạt 3.780 tấn. Mặt hàng mực và cá đều tăng. Mực năm 1996 khai thác được 1.441 tấn, năm 1997 đạt gần 2.900 tấn; cá các loại năm 1996 khai thác 19.250 tấn. Sản lượng nước mắm cá cơm, năm 1997 đạt 3,6 triệu lít, tăng gần 1 triệu lít so năm 1996.
Năm 1998, Kiên Hải phát triển thêm nghề nuôi cá lồng bè, nhưng nghề này vẫn chưa tương xứng với tiềm năng lợi thế sẵn có của huyện. Mặt hạn chế của nghề nuôi cá lồng bè ở chỗ chưa chủ động sản xuất giống. Nguồn giống chủ yếu được khai thác trong tự nhiên bằng các loại nghề như đặt lợp, lưới, cào, câu nên chất lượng cá giống kém, quy cách không đều cỡ, có thể bị xây xát, nên dễ bị mầm bệnh tấn công khi đưa vào nuôi. Bên cạnh đó, tình trạng giá cả không ổn định làm chậm tốc độ phát triển nuôi trồng thủy sản của huyện; việc nuôi còn phụ thuộc theo mùa. Ngoài ra, trình độ kỹ thuật nuôi trồng của ngư dân còn hạn chế, mặc dù Trung tâm khuyến ngư đã mở các lớp tập huấn hướng dẫn kỹ thuật, nhưng chưa đáp ứng hết yêu cầu của nhân dân.
Năm 1999, hải sản tuy có phát triển, nhưng giá sản phẩm thấp, nguyên liệu sơ chế thủ công rồi bán. Tàu thuyền tăng nhanh, nhưng phương tiện nhỏ (dưới 20CV) còn trên 35%; hiệu quả đánh bắt thấp do đánh bắt ven bờ. Công tác quản lý thu mua nguyên liệu, tàu thuyền từ tỉnh ngoài đến khai thác còn nhiều yếu kém.
Năm 2000, nhân dân đầu tư gần 30 tỷ đồng để đóng mới 234 phương tiện đánh bắt xa bờ; với tổng công suất 12.600 mã lực; nâng tổng số tàu thuyền của huyện lên đến 732 chiếc, với 27.655 mã lực, bình quân 38 mã lực/một phương tiện (so với đầu nhiệm kỳ về phương tiện tăng 46,9% (tăng 234 phương tiện về công suất tăng 19.218 mã lực) vượt gấp 2,1 lần so với chỉ tiêu Đại hội lần thứ III đề ra).
Đầu năm 2000, Kiên Hải có trên 700 hộ kinh doanh thương nghiệp được phân bổ ở khắp các đảo trong huyện, cơ bản giải quyết được nhu cầu mua bán, trao đổi hàng hóa trong dân.
Về tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, huyện tập trung phát triển theo hướng sơ chế các mặt hàng hải sản, mở rộng các ngành nghề như hàn, tiện, sửa chữa máy tàu, điện thắp sáng, chế biến nước đá, dịch vụ ăn uống và mua bán.
Theo Báo cáo của Ủy ban nhân dân huyện: “Tiểu thủ công nghiệp của Kiên Hải vẫn còn phát triển chậm và lạc hậu không đủ sức sửa chữa phương tiện đánh bắt lớn, thiếu vốn đầu tư cho sửa chữa đóng mới tàu có công suất lớn; phát triển chưa tương xứng với tiềm năng của huyện”.
Năm 1998, ngành trồng trọt tập trung phát triển theo hướng kinh tế vườn và trồng cây ăn trái lâu năm. Diện tích đất nông nghiệp toàn huyện có 220,7 ha, trong đó đất trồng cây lâu năm 206,21 ha.
Năm 1999, rau đậu các loại, do thiếu nước ngọt và hạn chế về diện tích, nên rau được trồng theo hướng tự sản tự tiêu trong nội bộ các đảo, một phần bán cho các tàu thuyền đánh cá; diện tích gieo trồng rau đậu là 8,7 ha, sản lượng đạt 87 tấn.
Nông - lâm nghiệp được quan tâm chỉ đạo theo hướng cải tạo vườn rẫy, trồng cây ăn trái, chăn nuôi gia súc, bảo vệ rừng đầu nguồn. Tổ chức ươm giống để trồng rừng ở Hòn Nghệ và Sơn Hải được gần 100 ha.
Năm 1998, cây công nghiệp dài ngày diện tích không ổn định. Năm 1997 có 175 ha, nhưng đến năm 1998 diện tích còn 148 ha, năm 1999 chỉ còn 124 ha. Cây trồng chính ở các đảo là dừa, xoài, mít và hồ tiêu...diện tích dừa có 92 ha, xoài 80 ha, và tiêu 32 ha, những cây trồng này chủ yếu trồng trong vườn nhà hoặc xen trong rừng phòng hộ trên các sườn dốc và ven các đảo.
Nuôi heo còn mang tính tự phát với quy mô nhỏ trong hộ gia đình. Năm 1999 có 996 con, sản lượng 136 tấn và năm 2000 có 796 con, sản lượng 107 tấn.
Năm 1998, đàn gia cầm có 3.706 con, đến năm 1999 số lượng là 3.843 con, năm 2000 có 3.910 con.
Năm 2000, chăn nuôi phát triển chậm, chưa ổn định, đàn giống chất lượng kém, tăng trọng chậm, tỷ trọng chăn nuôi chiếm tỷ lệ nhỏ trong sản xuất nông nghiệp.
Cùng với phát triển về kinh tế, lĩnh vực văn hóa-xã hội có sự chuyển biến quan trọng, hầu hết các chỉ tiêu đều đạt so với Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ IV.
Trong nhiệm kỳ, hoạt động thông tin tuyên truyền văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao tiếp tục được duy trì và phát triển đa dạng về hình thức, phong phú về nội dung. Công tác thể dục thể thao có bước phát triển khá chủ yếu ở bộ môn bóng chuyền. Do điều kiện sân bãi không có nên bộ môn bóng đá, điền kinh phát triển chậm.
Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư phát triển khá, nhiều phong trào cụ thể diễn ra sôi nổi như: phong trào sản xuất giỏi, giúp nhau làm kinh tế gia đình, xóa đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, tương thân tương ái, từ thiện nhân đạo… đã thu hút được các tầng lớp nhân dân tham gia.
Cuối năm 1999 đã xét công nhận 1 ấp đạt chuẩn văn hóa, 1 đơn vị đạt chuẩn văn minh và 930 hộ đạt chuẩn gia đình văn hóa. Các hoạt động thể dục thể thao, vui chơi giải trí được tổ chức thường xuyên thu hút đông đảo quần chúng tham gia, nhất là thanh thiếu niên và học sinh.
Năm 1999, huyện có 71% số hộ được sử dụng điện (máy đèn), 70,1% hộ được sử dụng nước sạch (nước suối tự nhiên); 50,1% hộ có tivi, cassette.
Việc xây dựng nhà ở, sửa chữa đường bộ đi quanh hòn được cấp ủy, chính quyền quan tâm chỉ đạo thực hiện, các xã vận động hàng ngàn ngày công để làm đường, sửa lộ, bắc cầu qua suối...
Năm 2000, huyện sửa chữa 25 căn nhà với số tiền 64 triệu đồng, xây dựng 5 căn nhà tình nghĩa với số tiền 98 triệu đồng, vận động xây dựng quỹ đền ơn đáp nghĩa được 60 triệu đồng.
Hàng năm, nhân các ngày lễ, tết cổ truyền. Đảng bộ thường xuyên tổ chức thăm hỏi, trợ cấp, tặng quà các đối tượng chính sách, người nghèo, người già neo đơn. Đã hỗ trợ cho 198 hộ nghèo (di dân tự do) với số tiền 158 triệu đồng, bước đầu ổn định được nơi ở.
Năm 2000, một số cơ sở vật chất kỹ thuật trong khu vực Nhà nước và ngoài nhân dân được quan tâm đầu tư mới hoặc nâng cấp đưa vào sử dụng như: hệ thống thông tin liên lạc, cầu cảng, máy đèn, khoan cây nước, trụ sở làm việc của các cơ quan Nhà nước...
Bưu điện huyện phát triển nhanh cả về chất lượng lẫn số lượng, năm 1998, bình quân 100 dân có 2,3 máy điện thoại, ngư dân đã mua hàng trăm máy bộ đàm để liên lạc phục vụ đánh bắt trên biển.
Chủ trương xóa đói giảm nghèo được quan tâm tổ chức thực hiện. Số hộ nghèo giảm từ 9,8% năm 1998 còn 7,6% năm 1999.
Huyện có 2 bà mẹ Việt Nam anh hùng, Quỹ phụng dưỡng các mẹ năm 2000 có 83 triệu đồng.
Tuy nhiên, trên lĩnh vực đời sống văn hóa - xã hội còn nhiều mặt hạn chế, công tác xóa đói giảm nghèo hiệu quả đạt thấp, thu hồi vốn chậm. Mặc dù trong nhiệm kỳ Đảng bộ có nhiều nỗ lực trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện chính sách xã hội, nhưng trên địa bàn huyện (do dân nhập cư tăng nhanh, đa số là hộ nghèo) vẫn còn một số hộ dân, gia đình chính sách gặp khó khăn.
Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở đem lại niềm phấn khởi trong nội bộ và ngoài xã hội, các quyền về dân chủ xã hội được tôn trọng và phát huy tốt hơn, nhân dân yên tâm bỏ vốn ra đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, làm ăn sinh sống. Các khiếu nại tố cáo của nhân dân được quan tâm giải quyết.
Công tác giáo dục đào tạo, được quan tâm đầu tư có phát triển khá. Tỷ lệ trẻ em từ 6-14 tuổi đến trường tăng từ 75% năm 1996 lên 80% năm 1999. Đã đầu tư hơn 1 tỷ đồng xây dựng kiên cố 35 phòng học làm hạ tỷ lệ phòng học cây lá từ 50% năm 1996 xuống còn 19% năm 1999. Căn bản xóa mù chữ, từng bước phổ cập trung học cơ sở.
Công tác bồi dưỡng nâng cao trình độ văn hóa cho đội ngũ cán bộ công chức được chú trọng, có 120 cán bộ tốt nghiệp bổ túc văn hóa cấp 2,3.
Năm 1999-2000, cơ sở vật chất cho ngành giáo dục được quan tâm đầu tư nhưng nhà ở cho thầy cô giáo còn thiếu và chật hẹp.
Sự nghiệp giáo dục-đào tạo được quán triệt theo quan điểm “Giáo dục là quốc sách hàng đầu trong chiến lược đào tạo con người” theo tinh thần nghị quyết trung ương 2 (khóa VIII). Công tác giáo dục đào tạo của huyện phát triển tích cực, số học sinh ra lớp của các cấp học, ngành học năm sau cao hơn năm trước;
Năm 2000, huyện được công nhận đạt chuẩn quốc gia về xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học.
Chăm sóc bảo vệ sức khỏe nhân dân được chú trọng. Số người mắc bệnh truyền nhiễm và tử vong giảm đáng kể, cơ sở vật chất các trạm y tế được đầu tư 1,5 tỷ đồng đảm bảo được việc khám và chữa bệnh cho nhân dân các đảo.
Bình quân có 2,4 bác sỹ và 27 cán bộ y tế trên 1 vạn dân, các xã đều có Bác sỹ. Dịch vụ y tế được mở rộng thuận lợi cho việc khám và chữa bệnh trong nhân dân. Công tác dân số-kế hoạch hóa gia đình và bảo vệ chăm sóc trẻ em có sự chuyển biến tích cực.
Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên giảm từ 2,12% năm 1996 còn 1,76% năm 2000 (nghị quyết dưới 1,8%); tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng giảm còn 17% (nghị quyết dưới 20%).
Ý thức vệ sinh môi trường, bảo vệ và sử dụng nguồn nước ngọt được nhân dân quan tâm.
Năm 1997, huyện đã xây dựng và triển khai các phương án phòng chống bạo loạn, tăng cường công tác bảo vệ nội bộ, có những biện pháp xử lí đúng, ngăn chặn kịp thời các vấn đề về an ninh, trật tự như: trộm, cướp, gái mại dâm, đánh bài ăn tiền, phạm pháp hình sự xảy ra 95 vụ, khám phá 42 vụ bắt 77 tên. Đưa ra truy tố xét xử hình sự 29 vụ. Về kinh tế bắt xử lí 14 vụ, xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa 8 vụ, thu hồi tài sản cho Nhà nước và trả lại cho nhân dân trị giá hàng trăm triệu đồng.
Phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc phát triển khá, tất cả các ấp đều có Hội đồng An ninh trật tự và 100% ấp đều xây dựng được tổ nhân dân tự quản.
Quán triệt Nghị quyết của Trung ương và của Tỉnh ủy về an ninh quốc phòng, trong nhiệm kỳ, Đảng bộ huyện thường xuyên giáo dục cán bộ đảng viên, chiến sĩ các lực lượng vũ trang và nhân dân đề cao cảnh giác cách mạng, nhận thức rõ âm mưu thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, chủ động giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn.
Công tác huấn luyện hàng năm đều hoàn thành kế hoạch, công tác tuyển quân được tập trung chỉ đạo lãnh đạo nên hàng năm đều đạt chỉ tiêu về số lượng và chất lượng. Công tác phối hợp tác chiến giữa lực lượng vũ trang đóng trên địa bàn được duy trì thường xuyên.
Năm 1997, bộ máy tổ chức, phương thức và nội dung hoạt động của Mặt trận và các tổ chức đoàn thể trong toàn huyện được củng cố nâng lên.
Lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, vào chế độ xã hội chủ nghĩa được củng cố. Các tầng lớp nhân dân trong huyện đoàn kết, ra sức khắc phục vượt qua khó khăn, đẩy mạnh sản xuất, thực hành tiết kiệm để xây dựng cuộc sống.
Mặt trận Tổ quốc thể hiện được vai trò tập hợp lực lượng, đoàn kết toàn dân, là đầu mối phối hợp nhiều phong trào sôi nổi, sâu rộng và thiết thực ở địa phương như: vận động cứu trợ lũ lụt, xóa đói giảm nghèo, xây nhà tình nghĩa, quỹ phụng dưỡng bà mẹ Việt Nam anh hùng, phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc…
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh có 350 đoàn viên, nhiều phong trào hành động cách mạng thiết thực, gắn được nghĩa vụ với quyền lợi của Thanh niên; Thu hút nhiều Thanh niên ở xã ấp tham gia sinh hoạt hội, sinh hoạt chi đoàn.
Hội Liên hiệp phụ nữ vừa củng cố lực lượng nòng cốt, vừa vận động chị em tham gia lao động sản xuất, giúp xóa đói giảm nghèo, thực hiện kế hoạch hóa gia đình.
Liên đoàn lao động được củng cố và hoạt động, tích cực trong các phong trào thi đua, bảo vệ quyền lợi chính đáng của nguời lao động, tổ chức cho đoàn viên đi tham quan, nghỉ mát.
Hội Nông dân từ huyện đến cơ sở được củng cố và đã tiến hành Đại hội Nông dân ở các xã, xây dựng được chi hội liên kết sản xuất, tổ trợ vốn…
Tuy nhiên, công tác vận động quần chúng năm 2000 vẫn còn những tồn tại yếu kém: Một số cấp ủy, chính quyền, cán bộ, đảng viên chưa thấu suốt quan điểm quần chúng trong việc tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước nên khoán trắng công tác vận động quần chúng cho khối đoàn thể. Một vài cấp ủy chưa thực hiện tốt quy chế làm việc, thiếu kiểm tra đôn đốc sự phối hợp trong hệ thống chính trị từng lúc, từng nơi chưa chặt chẽ, đồng bộ kém hiệu quả.
Năm 2000, hoạt động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân huyện, xã có những chuyển biến đáng kể, sinh hoạt hội đồng nhân dân được chuẩn bị khá chu đáo, có tranh luận dân chủ cởi mở hơn. Việc thực hiện các nghị quyết của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, các cơ quan chuyên môn bớt dần tính hình thức.
Hoạt động của Ủy ban nhân dân huyện, xã được đẩy mạnh theo hướng tăng cường quản lí Nhà nước, đổi mới cơ chế quản lí, kiện toàn tổ chức bộ máy và thực hiện nghiêm túc chế độ trách nhiệm, làm việc theo qui chế.
Tuy nhiên, hội đồng nhân dân các cấp vẫn còn lúng túng về tổ chức và hoạt động. Báo cáo về chế độ sinh hoạt định kỳ không được chấp hành nghiêm, ở một số xã có biểu hiện còn vi phạm nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Công tác quản lý Nhà nước về kinh tế ở trong thế bị động, chưa thực hiện tốt vai trò hướng dẫn, điều tiết, giám sát.
Công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật và chủ trương của Nhà nước tới người dân chưa đạt yêu cầu, công tác giải quyết đơn thư khiếu kiện thực hiện còn chậm so với quy định của pháp luật.
Cán bộ từ huyện đến xã vẫn còn chắp vá, chưa có quy hoạch đào tạo, hiện tượng vừa thừa, vừa thiếu (thừa nhân viên, thiếu chuyên viên giỏi) vẫn còn là khó khăn.
Thực hiện Nghị định 33-CP, ngày 17 tháng 8 năm 2000 của Chính phủ về việc điều chỉnh địa giới hành chánh, ngày 18 tháng 9 năm 2000 huyện Kiên Hải đã tiến hành bàn giao 2 xã Sơn Hải và Hòn Nghệ về cho huyện Kiên Lương quản lý.
Công tác kiện toàn tổ chức cơ sở Đảng được tiến hành thường xuyên. Tất cả các chi bộ cơ sở đã xây dựng qui chế làm việc, cụ thể hóa chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác với các ngành có liên quan, qua đó đã tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng trên các lĩnh vực.
Công tác sử dụng, bố trí cán bộ được tiến hành chặt chẽ đúng nguyên tắc. Nhìn chung qua sắp xếp, số cán bộ được đề bạt, bổ nhiệm, bầu bổ sung đều hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Đến cuối nhiệm kỳ số cơ sở yếu kém không còn, số cơ sở đảng đạt tiêu chuẩn trong sạch vững mạnh chiếm 57%. Nhưng so với chỉ tiêu Nghị quyết đề ra thì chưa đạt (Nghị quyết 70%).
Huyện ủy đã tập trung kiện toàn các cấp ủy Đảng, đổi mới chỉnh đốn Đảng theo từng loại hình tổ chức cơ sở đảng, 100% các chi đảng bộ trong huyện đã xây dựng quy chế làm việc. Công tác tự phê bình và phê bình đã kịp thời uốn nắn nhận thức lệch lạc, sai trái, góp phần bảo vệ quan điểm, đường lối của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước.
Năm 2000, thực hiện Nghị định 33 của Chính phủ đã chuyển giao cán bộ về huyện Kiên Lương 2 cấp ủy huyện, 30 đảng viên, 60 cán bộ xã.
Từ năm 1997 đến 2000, huyện mở được 5 lớp cho 234 đối tượng Đảng và kết nạp 83 đảng viên mới; nâng tổng số đảng viên của Đảng bộ lên 238 đồng chí.
Trong nhiệm kỳ đã thi hành kỷ luật khiển trách 1 cấp ủy viên huyện. Cảnh cáo 1 Ban Chi ủy xã, kỷ luật 5 cấp ủy viên cơ sở, kỷ luật 28 đảng viên (cảnh cáo 4, khai trừ 7, xóa tên 11, cách chức 2, xin ra khỏi Đảng 4).
Đến năm 1999, theo báo cáo của Huyện ủy: “Đội ngũ cán bộ, công chức ở các ngành, xã còn chắp vá. Công tác phát triển đảng viên, nhất là ở xã ấp, một số cấp ủy cơ sở chưa chú ý đến khâu tạo nguồn giáo dục lí tưởng cho quần chúng trước khi kết nạp Đảng.
Công tác kiểm tra thực hiện các quyết định của cấp trên và cấp mình chưa làm tốt, chưa có biện pháp ngăn chặn kịp thời những sai phạm của cấp dưới, trong chỉ đạo kiểm tra còn thiếu chiều sâu, thiếu tập trung vào đơn vị trọng điểm”.
Trong nhiệm kỳ đã bầu bổ sung 1 Ủy viên Ban Thường vụ Huyện ủy, sắp xếp phân công 1 Phó Bí thư Huyện ủy, 1 Ủy viên Ban Thường vụ, 4 Bí thư, 5 Phó Bí thư cơ sở, đề bạt 14 trưởng phó ban ngành cấp huyện.
Ngày 29 tháng 8, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khóa IV họp, thống nhất kết luận:
“Trong gần 5 năm thực hiện nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội trên địa bàn, huyện Kiên Hải đã thu được nhiều kết quả quan trọng. Các mục tiêu kinh tế - xã hội cơ bản đều đạt và vượt chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội đề ra.
Những kết quả đó thể hiện sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng hướng, năng động của Đảng bộ Kiên Hải. Ngay từ đầu nhiệm kỳ, Đảng bộ huyện xác định phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, do đó đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội được Nghị quyết Đại hội thông qua. Trên cơ sở đó, bộ máy chính quyền cụ thể hóa bằng chương trình, kế hoạch cụ thể và chủ động, tích cực trong thực hiện. Việc thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng ngư nghiệp, dịch vụ, nông nghiệp theo chiều hướng tích cực, phù hợp với thực tiễn của địa phương. Cơ cấu cây trồng, vật nuôi chuyển đổi đạt một số kết quả, sản xuất tích cực ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật.
Chính sách xã hội được thực hiện tốt; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng cao. Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được ổn định và giữ vững, vai trò quản lý của nhà nước được tăng cường.
Mặt trận và các đoàn thể không ngừng được củng cố; đa dạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân vào tổ chức, mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân. Quyền làm chủ nhân dân được thực hiện đầy đủ, niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng bộ và quản lý điều hành của Nhà nước được củng cố vững chắc.
Cùng với phát triển kinh tế, xã hội, công tác xây dựng Đảng được xác định là nhiệm vụ then chốt. Huyện thường xuyên xây dựng và chỉnh đốn, nâng cao chất lượng năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở Đảng. Công tác quy hoạch, đào tạo cán bộ, công tác phát triển Đảng được chú trọng, đạt và vượt chỉ tiêu hàng năm.
Bên cạnh kết quả đạt được cũng còn một số tồn tại yếu kém như: kinh tế phát triển chưa toàn diện; việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi chưa phổ biến ở diện rộng; kinh tế tập trung phát triển chậm; việc khai thác tài nguyên trên địa bàn chưa khoa học, chưa được quản lý chặt chẽ đã tác động không ít đến môi trường, an toàn giao thông trên biển còn nhiều bất cập;
Tình trạng các cơ sở kinh doanh dịch vụ văn hóa vi phạm pháp luật chưa được đẩy lùi, tệ nạn mê tín dị đoan vẫn còn tồn tại. Đời sống của một bộ phận dân cư còn gặp nhiều khó khăn, vẫn còn trên 6% số người trong độ tuổi lao động chưa có việc làm ổn định. Trên một số địa bàn, tình hình tội phạm hình sự, tệ nạn xã hội, tai nạn giao thông còn diễn biến phức tạp. Trình độ, năng lực của một số cán bộ, đảng viên còn hạn chế…”
Từ những tồn tại trên, qua thực tiễn, Đảng bộ Kiên Hải đúc kết được những bài học kinh nghiệm quí báu để tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ kinh tế xã hội của địa phương. Đó là:
- Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ, đảm bảo sự đoàn kết thống nhất ý chí và hành động trong toàn Đảng bộ.
- Tăng cường sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân, thực hiện tốt công tác dân vận của Đảng và cơ chế Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý. Quan tâm công tác quy hoạch, đào tạo, bố trí cán bộ, đảng viên, công chức có phẩm chất, năng lực.
- Nắm vững và vận dụng sáng tạo chủ trương, chính sách của Đảng phù hợp với thực tiễn địa phương. Phát huy tiềm năng, thế mạnh của địa phương để khai thác mọi tiềm năng nhằm phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
- Tăng cường hơn nữa vai trò và hiệu lực quản lý bộ máy Nhà nước các cấp, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
5. Kiên Hải khắc phục hậu quả cơn bão số 5 (2/11/1997)
Ngày 01/11/1997 nhận được công điện khẩn của Phân ban chỉ huy phòng chống lụt bão miền Nam về tình hình cơn bão số 5, tiếp đó trưa ngày 02/11/1997 nhận được công điện khẩn số 5477/KTN của Thủ tướng Chính phủ, UBND tỉnh điện cho các huyện và các xã trong tỉnh để thông báo cho ngư dân biết cơn bão số 5 sắp xuất hiện để lánh nạn.
Ban chỉ huy phòng chống lụt bão tỉnh Kiên Giang đã ra liên tiếp 3 thông báo khẩn cấp số 01, 02 và 03 về các biện pháp phòng tránh bão, UBND tỉnh ra 2 Chỉ thị số 30 và 31/CT-UB chỉ đạo cho UBND các huyện, thị, sở, ban, ngành kịp thời thông báo cho tàu thuyền đang hoạt động ngoài khơi phải về ngay nơi trú ẩn an toàn, kiểm soát chặt chẽ các cửa sông thông ra biển không cho tàu thuyền ra khơi trong thời gian có mưa bão.
7 giờ sáng ngày 01/11/1997, từ một vùng áp thấp nhiệt đới có vị trí trung tâm khoảng 7,5 - 8,5 độ vĩ Bắc, 113 - 114 độ kinh Đông, áp thấp nhiệt đới di chuyển về phía Tây và mạnh lên thành bão số 5. 1 giờ sáng ngày 02/11/1997, vị trí trung tâm bão số 5 ở vào khoảng 8,7 độ vị Bắc, 109,2 độ kinh Đông, sức gió mạnh nhất ở gần trung tâm bão mạnh cấp 9 - cấp 10, giật trên cấp 10, bão di chuyển về phía Tây mỗi giờ đi được khoảng 20 km.
Đến 12 giờ cùng ngày vị trí trung tâm bão ở khoảng 8,2 độ vĩ Bắc, 106,2 độ kinh Đông. Sau đó trung tâm bão đã di chuyển đến vị trí 8,7 độ vĩ Bắc, 105 độ kinh Đông ngay sát mũi Cà Mau, đã ảnh hưởng trực tiếp đến vùng biển, các đảo và vịnh Thái Lan, trong đó có Phú Quốc, Kiên Hải...
Từ 19 giờ ngày 02/11/1997 đến 4 giờ sáng ngày 03/11/1997 bão tiếp tục di chuyển về phía Tây - Tây Bắc, đi vào vùng biển, các xã đảo Kiên Hải và các xã ven biển tỉnh Kiên Giang. Đến 7 giờ ngày 03/11/1997 trung tâm bão ở khoảng 9, 2 độ Bắc - 103,1 độ kinh Đông và tiếp tục di chuyển về phía Tây - Tây Bắc. Đến 13 giờ cùng ngày bão tiếp tục di chuyển theo hướng Tây - Tây Bắc tiến sâu vào vịnh Thái Lan.
Ngay sau cơn bão, sáng ngày 03/11/1997, UBND huyện đã họp Ban chỉ huy phòng chống lụt bão huyện để nắm lại tình hình thiệt hại ban đầu do cơn bão số 5 gây ra đồng thời bàn biện pháp tổ chức cứu hộ cho ngư dân trên biển và tổ chức vận động cứu trợ.
Trưa ngày 03/11/1997 UBND tỉnh đã quyết định thành lập Ban chỉ huy cứu hộ trên biển thuộc địa bàn tỉnh Kiên Giang. Quyết định trưng dụng các phương tiện có khả năng cứu hộ trên biển của các ngành, đơn vị và nhân dân trong tỉnh để cứu hộ người và tài sản bị nạn trên biển do ảnh hưởng cơn bão số 5. Tỉnh đã điều động ngay 12 chiếc tàu thuộc các đơn vị Bộ đội Biên phòng, kiểm ngư và giao thông vận tải của tỉnh vào đội cứu nạn, chuẩn bị thuốc men và lực lượng y tế ra khơi ngay chiều ngày 03/11/1997 để tổ chức cứu vớt. Kiên Hải, huyện Phú Quốc và các huyện, thị ven biển cũng đã huy động lực lượng trên 30 phương tiện hiện có tại địa phương, đồng thời thông báo kêu gọi các tàu thuyền của ngư dân còn lại tham gia vào việc tìm kiếm cứu hộ.
Sáng ngày 04/11/1997 Huyện ủy và Ủy ban nhân dân huyện cùng 2 đoàn cán bộ lãnh đạo của Tỉnh ủy và Ủy ban nhân dân tỉnh trực tiếp đi nắm tình hình và chỉ đạo các biện pháp khắc phục hậu quả tại các vùng bị bão tàn phá ở Lại Sơn, Nam Du (Kiên Hải), An Thới, Thổ Châu (Phú Quốc). Sau đó Tỉnh ủy và Ủy ban nhân dân tỉnh đã quyết định tạm xuất ngân sách 2 tỷ đồng và đưa 200 tấn gạo ra các đảo để cứu trợ cho nhân dân.
Theo số liệu thống kê đến ngày 15/12/1997, thiệt hại do cơn bão số 5 gây ra cho toàn tỉnh Kiên Giang như sau:
Tổng số người chết tại tỉnh là 460 người (trong đó người tại tỉnh: 397 người, người ngoài tỉnh: 63 người). Số người bị thương tích là 335 người. Số tàu thuyền trong tỉnh bị chìm, hư hỏng là 2.383 chiếc. Trong đó tàu bị hư hỏng hoàn toàn là 243 chiếc, tàu bị chìm là 2.140 chiếc (có 301 chiếc chìm mất tích). Giá trị thiệt hại là 787 tỷ đồng. Riêng số tàu thuyền ngoài tỉnh chìm tại tỉnh theo địa phương nắm được khoảng 436 chiếc, tập trung ở Nam Du và Thổ Châu. Riêng Kiên Hải số tàu chìm là 733 chiếc, trị giá tài sản bị thiệt hại là 179 tỷ. Có 3.210 nhà bị sập, 20.537 nhà bị tốc mái hư hỏng và nhiều tài sản khác của nhân dân bị hư hại. Giá trị thiệt hại là 333 tỷ đồng. Có 107 phòng bị sập, 568 phòng bị hư hỏng, tốc mái, bàn ghế và tài sản khác bị hư hại. Có 16 trạm xá, phòng khám bị sập hoàn toàn, 62 trạm và phòng khám khác bị hư hỏng tốc mái và một số tài sản khác bị hư hại. Giá trị thiệt hại là 3 tỷ. Có 85 căn nhà thuộc trụ sở của các cơ quan đoàn thể bị sập, 96 căn bị hư hỏng tốc mái. Giá trị thiệt hại là 9 tỷ 600 ngàn đồng. Tổng số giá trị thiệt hại chung là 1.470 tỷ đồng (chưa kể chi phí trục vớt, cứu hộ và cứu trợ là 45.331.400.000đ).
Ngày 22/11/1997, để kịp thời khắc phục hậu quả do cơn bão số 5 gây ra và thực hiện Quyết định số 985 ngày 20/11/1997 của Thủ tướng Chính phủ, UBND tỉnh đã ra Kế hoạch số 23 để chỉ đạo triển khai một số biện pháp cấp bách như thành lập nhiều đoàn cán bộ của tỉnh đi kiểm tra cứu hộ và nắm tình hình thiệt hại tại chỗ, thăm viếng các gia đình bị nạn do cơn bão số 5 gây ra ở Hòn Tre, Lại Sơn, Nam Du (Kiên Hải), các xã thuộc Phú Quốc và quần đảo Thổ Châu và các địa phương khác trong tỉnh.
Kế hoạch khắc phục hậu quả cơn bão số 5 nêu rõ:
- Tập trung chỉ đạo tiếp tục việc cứu hộ, cứu người, cứu đói và giải quyết ổn định nơi ăn, ở cho nhân dân bị thiệt hại do gây ra.
- Ban chỉ huy cứu hộ trên biển của tỉnh cùng chính quyền địa phương nhất là các huyện Phú Quốc, Kiên Hải và các huyện, thị ven biển tập trung huy động lực lượng và trưng dụng các loại tàu thuyền hiện có tại địa phương và phối hợp với các lực lượng Hải đoàn biên phòng 28, Hải quân vùng 5… để bung ra trên biển tổ chức tìm kiếm cứu vớt các nạn nhân còn sống sót trên biển, cấp cứu kịp thời số người bị thương và mai táng số người đã chết.
- Đối với nạn nhân còn sống sót sau cơn bão: sau khi cứu vớt, nếu bị thương tổ chức cấp cứu và đưa vào bệnh viện điều trị miễn phí, giải quyết cho mỗi người một bộ quần áo và cấp tiền tàu xe, tiền ăn đi đường đủ để giúp họ trở về gia đình.
- Đối với nạn nhân đã chết: Tổ chức vớt xác đưa vào bờ, nếu nạn nhân có thân nhân tiếp nhận thì giải quyết cấp cho một cái hòm và cấp cho tiền chi phí chuyên chở 500.000đ để gia đình nạn nhân chở người chết về quê chôn cất. Nếu nạn nhân chết, nhưng không có thân nhân tiếp nhận mà xác đã thối rữa, không thể để lâu sẽ ảnh hưởng vệ sinh môi trường thì cho lập các thủ tục nhận dạng và giải quyết hòm để chính quyền địa phương phối hợp với Hội Chữ thập đỏ tổ chức chôn cất và được chi thêm các khoản chi phí cho việc chôn cất theo thực tế. Nếu đưa về thị xã thì chôn cất ở nghĩa trang nhân dân, trường hợp những nạn nhân đã chết lâu ngày cơ thể bị thối rữa, không thể đưa kịp vào đất liền thì có thể chôn cất ở các đảo, nhưng trước khi chôn cất cũng phải làm tốt thủ tục nhận dạng để tạo thuận lợi cho thân nhân có thể tìm kiếm sau này.
Đến ngày 11/11/1997, toàn tỉnh đã cứu vớt được 1.896 người còn sống đưa vào đất liền, cấp cứu 335 người bị thương, vớt đưa vào bờ 142 người chết, trong đó người trong tỉnh là 107, người ngoài tỉnh 35 (tỉnh đã tổ chức mai táng 123 người, số còn lại thân nhân nhận về địa phương mai táng). Ngoài ra, đã tổ chức đưa vào bờ, trợ cấp xã hội, tiền tàu xe, tiền ăn để người bị nạn về quê trên 7.000 lao động nghề cá, làm thuê sau bão do tàu bị chìm không có công ăn việc làm.
Cùng ngày, Ủy ban nhân dân huyện Kiên Hải đã chỉ đạo Ủy ban nhân dân các xã An Sơn, Hòn Tre, Lại Sơn, Sơn Hải và Hòn Nghệ tổ chức nắm tình hình thiệt hại do bão gây ra, thống kê lập danh sách ngay các hộ gia đình có người bị chết, tàu chìm, nhà bị sập, tốc mái… để tổ chức việc cứu trợ kịp thời và giúp đỡ họ tu sửa lại nhà ở với tinh thần không để nhân dân bị đói, không có nơi ở, nhất là đối với các hộ gia đình chính sách. Đồng thời chỉ đạo tổ chức việc cứu hộ, trục vớt các tàu thuyền của nhân dân bị chìm do bão gây ra. Kết hợp 2 đội trục vớt của tỉnh và lực lượng trục vớt của Bộ Giao thông Vận tải đưa xuống để tổ chức trực vớt, vận động nhân dân hỗ trợ giúp nhau để trục vớt, sử dụng các phương tiện lớn hiện có địa phương bằng kinh nghiệm thực tiễn của ngư dân để trục vớt, với tinh thần dù tàu bị bể không sửa chữa được thì cũng trục vớt máy móc còn lại để giảm bớt thiệt hại của nhân dân.
Số tàu ngoài tỉnh chìm tại Kiên Hải đã trục vớt được 38 chiếc, còn lại phần lớn tự thuê người tổ chức trục vớt, có tàu chỉ vớt máy, chứ không trục vớt vỏ.
Sở Giáo dục Đào tạo, Sở Giao thông Vận tải, Sở Y tế, Sở Công nghiệp, Bưu điện, Điện lực... theo chức năng quản lý của mình đã phối hợp cùng các địa phương bị bão gây thiệt hại có kế hoạch tu sửa lại trường học, trạm y tế, trụ điện, hệ thống thông tin liên lạc, bến tàu, bến cảng cá, cầu nổi Hà Tiên… bị bão làm hư, sập để sớm đưa các hoạt động kinh tế xã hội ở các địa phương trở lại bình thường.
Về phục hồi lại nghề cá và phục hồi sản xuất nông-lâm-nghiệp, nuôi trồng thủy sản. Huyện Kiên Hải đã phối hợp với ngành hải sản và ngành nông nghiệp cùng các xã tiến hành điều tra thống kê thiệt hại và đề xuất việc giải quyết giảm thuế, gia hạn nợ vay, khoanh nợ, xác định nhu cầu vốn vay… để sửa chữa, đóng mới tàu thuyền khôi phục nghề cá… theo Quyết định số 985/TTg ngày 20/11/1997 của Thủ tướng Chính phủ.
Nhìn chung, cơn bão số 5 đã gây nhiều thiệt hại cho nhân dân trên địa bàn huyện Kiên Hải, nhưng Đảng bộ, chính quyền và nhân dân nhanh chóng khắc phục hậu quả để khôi phục sản xuất và sinh hoạt, sớm ổn định cuộc sống của nhân dân.
6. Kiên Hải trong giai đoạn 2000 - 2005
Bước vào thế kỷ XXI, trên cơ sở những thành tựu đạt được sau 15 năm thực hiện đường lối đổi mới, Đảng bộ huyện Kiên Hải tiếp tục lãnh đạo quần chúng nhân dân thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong xu thế phát triển hội nhập, với mục tiêu của Đảng đề ra: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Đảng bộ huyện không ngừng lớn mạnh, đời sống của nhân dân được nâng lên. Huyện đã đạt được những thành tựu trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội, tình hình tật tự xã hội, chính trị, an ninh quốc phòng được giữ vững. Bên cạnh đó, trên địa bàn huyện vẫn tồn tại những yếu kém. Tình hình kinh tế - xã hội của huyện phát triển chưa thật sự vững chắc trước yêu cầu phát triển trong xu thế mới: công nghệ còn lạc hậu, hiệu quả kinh tế thấp, hàng hóa sản phẩm chưa đủ sức cạnh tranh trên thị trường. Cơ sở hạ tầng ở các đảo chưa đồng bộ, lao động thiếu việc làm, phân hóa giàu nghèo diễn ra nhanh, tệ nạn xã hội chưa được đẩy lùi, đời sống của một bộ phận nhân dân lao động còn nhiều khó khăn. Một số cơ sở, hệ thống tổ chức, bộ máy chưa phát huy được sức mạnh trong lãnh đạo, tập hợp quần chúng.
Trước tình hình trên, ngày 24 tháng 10 năm 2000, Đảng bộ Kiên Hải đã tổ chức Đại hội lần V, nhiệm kỳ 2000-2005 nhằm tổng kết, đánh giá quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ IV.
Đại hội đã bầu 23 đồng chí vào Ban Chấp hành khóa này; đồng chí Đoàn Văn Tiết, được bầu làm Bí thư Huyện ủy; đồng chí Trần Mười Lớn, Phó Bí thư; đồng chí Nguyễn Thanh Long, Ủy viên Ban Thường vụ, Thường trực Huyện ủy.
Đại hội đã nghiêm túc kiểm điểm những mặt làm được và chưa làm được, rút ra nguyên nhân, bài học kinh nghiệm thực tiễn, đồng thời Đại hội đã dự báo tình hình và đề ra phương hướng nhiệm vụ 5 năm 2000-2005 như sau:
“...Qua 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ IV (1996-2000), Đảng bộ và nhân dân trong huyện đã vượt qua những khó khăn thử thách: thiên tai, bão lũ xảy ra (đặc biệt là cơn bão số 5), sản lượng khai thác hải sản sụt giảm, giá cả vật tư hàng nông hải sản thường xuyên diễn biến bất lợi cho người sản xuất. Trước tình hình đó, Đảng bộ, nhân dân trong huyện đã nêu cao tinh thần đoàn kết, tự lực tự cường, ra sức phấn đấu thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ IV đề ra”.
Nhiệm kỳ 1996-2000, tình hình kinh tế trên địa bàn huyện phát triển với tốc độ khá. Mặc dù ảnh hưởng thiên tai, nhưng tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm đạt 8,84%. Thu nhập bình quân đầu người năm 2000 đạt 5,4 triệu đồng, so với chỉ tiêu Đại hội đạt 90%.
Năm 2004, kinh tế tiếp tục phát triển, nhiều chỉ tiêu chủ yếu đạt so với kế hoạch và tăng so với cùng kỳ. Tổng sản phẩm GDP trong huyện tăng 12,55%, thu nhập bình quân đầu người đạt 9,99 triệu đồng, tăng 17,37%.
Nhìn chung, tiến độ trồng mới rừng của huyện còn thấp, do tốc độ rửa trôi tầng đất mặt khá nhanh, làm trơ đá gốc nên gặp khó khăn trong việc triển khai trồng rừng tập trung. Tuy có trồng mới rừng nhưng tài nguyên rừng Kiên Hải có khuynh hướng giảm, quản lý rừng còn hạn chế.
Tổng chi ngân sách trên địa bàn huyện năm 2004 là 6.639 triệu đồng. Các khoản chi chủ yếu là chi đầu tư xây dựng cơ bản, chi thường xuyên, chi bổ sung ngân sách cấp dưới. Trong chi thường xuyên, khoản chi quản lý hành chính chiếm tỷ trọng cao 71,22%, sự nghiệp y tế 11,36%, văn xã 5,13%, còn lại là chi cho sự nghiệp kinh tế, an ninh quốc phòng và chi khác.
Ngân hàng huyện đã hỗ trợ vốn cho nhân dân đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. Ngân hàng vươn tới tận xã, tạo điều kiện thuận lợi cho dân vay vốn.
Vốn cho vay trung và dài hạn ngày càng tăng và chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu cho vay, chủ yếu cho vay sản xuất thủy sản (đánh bắt xa bờ) và dịch vụ.
Cho vay ngắn hạn chiếm tỷ lệ nhỏ trong cơ cấu cho vay. Doanh số cho vay ngắn hạn năm 2000 đạt 1,53 tỷ đồng. Nguồn vốn vay ngắn hạn chủ yếu đầu tư phát triển nông nghiệp - thủy sản và dịch vụ; vay để phát triển các ngành khác còn chiếm tỷ lệ nhỏ. Nông nghiệp - thủy sản với doanh số cho vay ngắn hạn năm 2004 là 1,1 tỷ đồng.
Năm 2001 trở về sau, huyện tập trung đẩy mạnh phát triển kinh tế biển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Chính phủ cho vay khắc phục hậu quả sau cơn bão số 5, đầu tư 143 tỷ đồng, trong đó có nguồn vốn Nhà nước cho vay 74 tỷ đồng cho đánh bắt xa bờ để đóng mới tàu thuyền, nên hiệu quả kinh tế cao, mở ra hướng mới trong khai thác nghề cá của huyện.
Huyện có đội cào đôi với 45 cặp, công suất 38.400CV, khai thác ngư trường xa bờ, năng suất và hiệu quả kinh tế hơn hẳn so với đánh bắt gần bờ, đây là đội tàu chủ lực của huyện.
Sản lượng khai thác hải sản hàng năm tăng 6,82%, bình quân mỗi năm khai thác sản lượng đạt 36.000 tấn, (chỉ tiêu Đại hội lần thứ IV đề ra là 32.800 tấn, vượt 9,8%. Riêng 2 xã Hòn Nghệ và Sơn Hải có 157 phương tiện với 6.466CV sản lượng khai thác đạt 2.500 tấn.
Năm 2001, tỉnh đầu tư 17 tỷ đồng xây dựng cảng cá Nam Du, lập dự án xây dựng chợ cá trên biển ở xã Lại Sơn, xây dựng khu neo đậu tránh bão ở Hòn Tre.
Công tác bảo vệ và quản lý nguồn lợi hải sản được quan tâm triển khai thực hiện Chỉ thị 01 của Chính phủ về “cấm đánh bắt hải sản bằng chất nổ, chất độc và xung điện” và Quyết định 1236 của Ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang về cấm hành nghề xiệp, bóng mực, cào khu vực cấm.
Năm 2003, trên địa bàn huyện Kiên Hải lại xuất hiện một kiểu khai thác khác, đó là nghề bắt mực tuộc, mà ngư dân quen gọi là nghề “xuồng ốc”; có trên 200 “xuồng ốc” bắt mực tuộc. Đây là loại xuồng dùng vỏ ốc voi (mua từ miền Trung về), kết lại thành giàn, thả xuống đáy biển nhử cho con mực tuộc cái đang trong thời kỳ mang trứng chui vào đó trú ngụ để sinh sản, nhân đó người thợ kéo ốc lên mà bắt mực. Nghề này đầu tư ban đầu không lớn, tiền mua ốc, dây đóng xuồng, động cơ khoảng 40 triệu đồng/chiếc. Ở ấp Bãi Nhà A có trên 60 chiếc loại này. Các phương tiện này chưa có đăng ký, nên gây khó khăn cho công tác quản lý, ngăn chặn khi ra khơi trong thời tiết xấu.
Thời điểm này, hoạt động nghề cá ở huyện gặp nhiều khó khăn, giá nhiên liệu cao, “đầu ra” bấp bênh trong khi nguồn lợi hải sản đứng trước nguy cơ cạn kiệt. Trước thực trạng ấy, Huyện ủy và Ủy ban nhân dân huyện đưa ra nhiều định hướng để thúc đẩy nghề cá hoạt động hiệu quả, nhưng chưa có những chuyển biến cụ thể.
Cuối năm 2003, toàn huyện chỉ còn 668 phương tiện, nhưng chỉ có 160 phương tiện lớn đánh bắt xa bờ, số phương tiện này làm ăn tương đối hiệu quả. Còn lại gần 500 phương tiện có công suất nhỏ (45 mã lực trở xuống), chủ yếu đánh bắt ghẹ, cào tôm, mực…gần bờ; thường bị thua lỗ.
Trước thực tế đó, ngư dân xã Hòn Tre thành lập tổ hợp tác theo dạng 2-3 phương tiện nhỏ hùn lại đóng mới một chiếc có công suất lớn hơn; được Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí, mở lớp tập huấn nuôi trồng, đánh bắt…nhưng hoạt động vẫn còn gặp khó. Một phần do khâu quản lý chồng chéo, mặt khác các ngành chức năng chưa thật sự quan tâm để tổ hợp tác hoạt động, nhất là trong khâu tập huấn quản lý tổ hợp tác… nên trong 9 tổ hợp tác được thành lập đến cuối năm 2003 đã giải thể 3 tổ, 1 phải tiến hành phát mãi tài sản, số còn lại hoạt động cầm chừng.
Năm 2003, phong trào nuôi cá lồng bè (cá mú) được một số hộ dân ở xã Hòn Tre nuôi có hiệu quả, có hộ nuôi một vụ 6 tháng, lãi trên 20 triệu đồng, trong khi chi phí bỏ ra ban đầu khoảng 8-10 triệu đồng. Huyện chủ trương cho nhân dân có phương tiện nhỏ làm nghề ốc mực. Trung bình một ngày ra khơi làm nghề ốc mực, sau khi trừ chi phí mỗi chủ phương tiện vẫn còn lãi trên 100 ngàn đồng.
Năm 2004, Trung tâm khuyến ngư tỉnh đã nuôi thử nghiệm ốc hương tại địa bàn xã An Sơn. Bước đầu do đoàn thanh niên huyện đứng ra trong coi, chăm sóc, kỹ thuật nuôi do nhóm kỹ sư của tỉnh đảm nhiệm. Đây là cơ hội tốt để chuyển đổi ngành nghề cho ngư dân…
Tuy nhiên, những biện pháp trên cũng chỉ mang tính “tạm thời” do vậy huyện quyết tâm đưa những hộ có phương tiện nhỏ làm ăn không hiệu quả chuyển sang nuôi trồng thủy sản; càng hạn chế phát sinh phương tiện nhỏ càng tốt, nếu hộ nào có điều kiện thì chuyển sang đánh bắt xa bờ. Đồng thời khuyến khích người dân thành lập mô hình tổ HTX, nhưng phải có sự hỗ trợ của tỉnh, ngành liên quan mở lớp tập huấn cho công tác này.
Hoạt động nội thương phát triển khá, thị trường được mở rộng, hàng hóa phát triển đa dạng. Ngành nội thương chủ yếu do khu vực kinh tế ngoài quốc doanh chi phối, số hộ kinh doanh thương mại và dịch vụ giảm từ 700 hộ xuống còn 660 hộ, nhưng doanh số tăng từ 68,37 tỷ năm 2002 lên 79,74 tỷ năm 2003.
Các ngành hàng và địa điểm kinh doanh được bố trí lại hợp lý hơn góp phần thúc đẩy giao lưu hàng hoá. Hệ thống thương nghiệp quốc doanh từ khi chuyển sang cơ chế thị trường hoạt động kinh doanh giảm dần. Toàn huyện năm 2003 có một chợ trung tâm huyện và 3 chợ xã.
Hệ thống chợ huyện và xã tuy đã được sắp xếp tổ chức lại, nhưng việc đầu tư xây dựng chưa thực hiện theo qui hoạch nên phần lớn còn chợ tạm.
Hoạt động du lịch có bước phát triển, từ 1.000 lượt khách năm 2000 tăng lên 1.500 lượt khách năm 2003. Tuy nhiên so với tiềm năng thì hoạt động du lịch còn hạn chế do thiếu cơ sở dịch vụ (tàu cao tốc, nhà nghỉ, nhà hàng ăn uống, khu vui chơi giải trí…), nhất là khi các khu du lịch lân cận phát triển và khi thị xã Rạch Giá lên đô thị loại III
Đến năm 2002 toàn huyện có 10 phương tiện vận tải hàng hoá với công suất 59 tấn, tăng hơn năm 2001 là 5 phương tiện.
Khối lượng vận chuyển và luân chuyển năm 2002 là 1.004.000 tấn/km; khối lượng vận chuyển hàng hóa năm 1995 là 11.000 tấn.
Nhìn chung, hoạt động vận tải có bước phát triển, nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu do phương tiện cũ xuống cấp, việc chuyển đổi phương tiện còn chậm, công suất nhỏ nên chưa khai thác hết tiềm năng của huyện cũng như của vùng.
Mạng lưới bưu chính viễn thông của huyện phát triển khá, bưu điện huyện đã đầu tư đổi mới trang thiết bị, tiếp nhận công nghệ mới trong lĩnh vực bưu chính viễn thông; đến năm 2002 toàn huyện đã có 4 bưu cục (1 bưu cục cấp II và 3 bưu cục cấp III) các bưu cục được lắp đặt trang thiết bị kỹ thuật số, tổng đài điện tử, hoà mạng quốc gia và quốc tế với chất lượng cao.
Mạng lưới thông tin được tự động hoá đảm bảo thông tin liên lạc trong nước và quốc tế. Dung lượng điện thoại tăng từ 1.280 số năm 1995 lên 2.506 số năm 2002.
Năm 2002 có 100% số xã có máy điện thoại với 900 máy, đã lắp đặt tổng đài di động, mật độ máy điện thoại bình quân 3,5 máy/100 dân. Năm 2002 toàn huyện có 1.074 máy, bình quân 5,5 máy/100 dân. Mật độ điện thoại cao hơn so với bình quân toàn tỉnh (2,46 máy/100 dân). Doanh thu hoạt động bưu điện năm 2002 đạt 2,7 tỷ đồng, tăng gần gấp đôi so với năm 1995.
Năm 2003, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ thương mại đạt 84,9 tỷ đồng, tăng bình quân hàng năm 8,82%. Tiểu thủ công nghiệp tiếp tục mở rộng các cơ sở như hàn, tiện, sửa chữa máy tàu, sản xuất nước đá, nước mắm...phát triển ổn định và thu hút hàng ngàn lao động.
Các cơ sở sản xuất đã chủ động quan hệ tìm kiếm thị trường, tiêu thụ các mặt hàng hải sản với sản lượng khá. Sản xuất nước mắm đến năm 2000 đạt 3,6 triệu lít (bằng 90% chỉ tiêu đại hội). Tổng mức luân chuyển bình quân hàng năm tăng 10,52% và năm 2004 mức luân chuyển đạt 72,5 tỷ đồng.
Theo Báo cáo năm 2004 của Ủy ban nhân dân huyện: “Kinh tế tăng trưởng chưa toàn diện, thiếu ổn định, năng suất, chất lượng, hiệu quả còn hạn chế. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa còn chậm, hải sản chủ yếu là đánh bắt, nuôi trồng chậm phát triển, giá trị sản xuất còn thấp.
Tàu có công suất dưới 20 CV vẫn nhiều, đánh bắt xa bờ còn ít. Sản lượng đánh bắt thủy sản có giá trị kinh tế cao chưa nhiều. Việc hình thành hợp tác và tổ hợp tác đánh bắt ngoài khơi còn chậm.
Nuôi trồng thủy sản vẫn chưa trở thành ngành chính để phát triển. Đầu tư cơ sở hạ tầng nghề cá chưa đáp ứng yêu cầu mở rộng ngư trường.
Công nghiệp còn nhỏ bé và phân tán, nhất là công nghiệp chế biến hải sản phát triển chưa tương xứng với lợi thế về nguồn nguyên liệu, chất lượng sản phẩm và sức cạnh tranh chưa cao, việc thu hút các thành phần kinh tế tư nhân vào lĩnh vực chế biến nông hải sản xuất khẩu còn hạn chế. Công nghiệp cơ khí và sửa chữa tàu thuyền phát triển chậm, công nghiệp hoá các đảo phát triển chậm chưa đáp ứng yêu cầu.
Thương mại - dịch vụ chưa phát huy tốt vai trò, chức năng kinh doanh, tiêu thụ hàng hóa nông thủy sản chủ lực chưa thật sự là đòn bẩy thúc đẩy sản xuất phát triển.
Các thành phần kinh tế phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, kinh tế hợp tác và hợp tác xã phát triển chưa đa dạng. Kinh tế cá thể phát triển chưa đa dạng và thường tập trung nhiều vào lĩnh vực dịch vụ”.
Năm 2004, trên lĩnh vực nông lâm nghiệp, huyện đã chỉ đạo chuyển dịch cơ cấu theo hướng chú trọng chăm sóc, cải tạo vườn đồi, trồng cây ăn trái có giá trị kinh tế cao. Một số nông dân đã kết hợp chăn nuôi với làm vườn rẫy tạo được hiệu quả kinh tế. Chương trình trồng rừng theo dự án 327 bước đầu được triển khai, toàn huyện trồng được 530 ha.
Có 40 hộ đạt tiêu chuẩn quy mô trang trại, có 8 hộ đạt mô hình thu nhập trên 50 triệu đồng/ha/năm; có 3 hộ đạt danh hiệu nông dân sản xuất giỏi cấp Trung ương, 33 hộ cấp tỉnh, 50 cấp huyện.
Các tuyến giao thông trong huyện đảm bảo phục vụ nhu cầu đi lại và vận chuyển hàng hóa của nhân dân. Mạng lưới thông tin liên lạc mở rộng đến tận các ấp trong huyện.
Năm 2004, các cơ quan chức năng của huyện đã phát hiện 08 vụ vi phạm trên lĩnh vực văn hóa thông tin, thu giữ 1.259 đĩa không được phép lưu hành, xử lý hành chính phạt 7 triệu đồng, nhắc nhở 50 hộ sử dụng Ăng ten Parabol không đăng ký.
Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở” được củng cố nâng cao chất lượng, việc chỉ đạo bình xét các danh hiệu văn hoá năm 2004 có chú ý đến chất lượng theo tiêu chuẩn quy định chung của tỉnh.
Năm 2004 có 3.292/3.911 hộ, chiếm 84,17%, 78/108 tổ, chiếm 72,22%, 7/13 ấp, chiếm 53,84% đạt tiêu chuẩn văn hoá; 20/28 đơn vị cấp xã đạt tiêu chuẩn đơn vị văn minh, đạt tỉ lệ 71,42%.
Đến năm 2005, phong trào thể dục thể thao trong toàn huyện được duy trì như: cầu lông, bóng chuyền, bóng đá, thể dục dưỡng sinh... Huyện có 4 đội thông tin, 01 đài truyền thanh huyện và 2 trạm truyền thanh xã, 01 thư viện với 4.000 quyển sách.
Năm 2004, huyện có có 7,5 km đường bộ trong các đảo, trong đó mặt đường cán đá láng nhựa dài 3,8 km, đường đất đỏ 3,7 km. Đường Bãi Chệt (Đài Rađa) xã An Sơn dài 3,8 km được cán đá láng nhựa, các tuyến nội bộ xã Hòn Tre, Lại Sơn, An Sơn là đường đất đỏ (Đường lộ Ấp I xã Hòn Tre dài 583m; lộ Ấp II xã Hòn Tre dài 548m; lộ Thiên Tuế xã Lại Sơn dài 1.578 m và đường Bãi Ngự xã An Sơn dài 1.000m)
Đường biển là tuyến giao thông chính nối huyện đảo với đất liền và liên xã trong huyện. Các tàu biển cơ bản cặp bến đều khắp các đảo trong huyện nên có tác dụng trong việc vận chuyển hàng hoá, hành khách, phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt. Việc đầu tư các tàu cao tốc có công suất nhỏ đã đáp ứng nhanh yêu cầu đi lại của nhân dân vùng hải đảo.
Giai đoạn 2000 -2005, huyện đã đầu tư bằng vốn ngân sách và huy động dân cho các tuyến đường bộ nội xã (đường trục xã) với tổng kinh phí trên 1,2 tỷ đồng, trong đó ngân sách đầu tư 706 triệu. Về đổi mới phương tiện vận tải biển, tư nhân đã đầu tư canô đi các đảo với số vốn trên 1,2 tỷ đồng.
Huyện Kiên Hải sử dụng điện từ máy phát Diezel. Đến năm 2004 trên địa bàn huyện có 4,34 km đường dây hạ thế và các trạm biến áp với tổng dung lượng 1.245 KVA. Có 3/3 xã được sử dụng điện và 3.806 hộ được sử dụng điện, chiếm tỷ lệ 71,30% số hộ dân trong huyện. Nhà nước đầu tư gần 2,4 tỷ để đầu tư 5 máy phát điện ở Hòn Tre 2 máy, An Sơn 2 máy và Lại Sơn 1 máy.
Đến năm 2004 tỷ lệ hộ nghèo của huyện chỉ còn 5,17% (bình quân toàn tỉnh là 10,1%), giảm 19% so năm 2003, tỷ lệ hộ khá và giàu ngày càng tăng. GDP bình quân đầu người tăng gần 1,5 lần so với cùng kỳ.
Năm 2002, ở Hòn Ngang (An Sơn) có 8 giếng ngọt, nhưng 2004 chỉ còn 3 giếng là tạm sử dụng được. Ở Bãi Ngự (Hòn Lớn) có khoảng 70 giếng. Tại 3 giếng của ông Châu Văn Tiễn, mỗi ngày cung cấp chừng 300 phi cho các ghe đánh cá và ghe đổi nước với giá 2.500đ phi.
Do xài nước bị nhiễm mặn, phèn nhưng khi sử dụng không nấu chín nên xảy ra hiện tượng một số bà con bị bệnh đường ruột, kiết lỵ, tiêu chảy, viêm đại tràng mãn tính…Để đối phó với tình hình nắng hạn diễn ra gay gắt Ủy ban nhân dân huyện Kiên Hải đề nghị tỉnh chi viện nước từ đất liền ra để bán cho nhân dân với giá 30.000đ/m3, ngân sách sẽ bù lỗ.
Nhân dân huyện Kiên Hải sử dụng nước từ nguồn nước ngầm, nguồn nước mặt được sử dụng trong những tháng mùa mưa khi khe, suối đầy nước.
Từ những năm 2000, do được đầu tư của chương trình nước vệ sinh môi trường nông thôn, vốn hỗ trợ của ngân sách nhà nước và huy động vốn dân, số hệ cấp nước tập trung, số lượng giếng khoan, giếng đào, hồ nước và bể chứa nước mưa tăng lên đáng kể.
Năm 2000, Chủ tịch nước Trần Đức Lương đến thăm và làm việc tại tỉnh Kiên Giang. Sau khi đi khảo sát thực tế tình hình khắc phục hậu quả sau bão số 5 (1997) tại xã An Sơn, nhận thấy tình hình khan hiếm nước sinh hoạt, Chủ tịch đã tặng xã An Sơn một công trình hồ chứa nước ngọt, trị giá 5,8 tỷ đồng.
6 tháng đầu năm 2005, huyện cất được 36 căn nhà đại đoàn kết cấp cho những hộ dân nghèo.
Thời kỳ 2000 - 2005, lực lượng lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân tăng bình quân hàng năm từ 2,75% tương ứng lượng lao động tăng thêm là 1.919 người.
Năm học 2004 - 2005, huy động được 3.792 học sinh các cấp, tỷ lệ huy động trẻ 6-14 tuổi đến trường đạt 91,10%, riêng trẻ 6 tuổi vào lớp 1 đạt 99,30%; công tác phổ cập đúng độ tuổi đạt 56,67%. Đầu năm 2005 thành lập được một trung tâm học tập cộng đồng tại xã Hòn Tre.
Năm học 2002 - 2003 trên địa bàn huyện có 7 trường, trong đó có 1 trường mầm non, 6 trường phổ thông. Toàn huyện có 80 phòng học, trong đó: nhà trẻ - mẫu giáo 9 phòng, tiểu học 48 phòng, trung học cơ sở và trung học phổ thông 23 phòng.
Năm 2004, xã An Sơn, việc khám và điều trị bệnh cho nhân dân còn nhiều khó khăn do đi lại cách trở. Xã có một Trạm y tế, nhưng dân cư sống rải rác ở các hòn, cách nhau 1 - 2 cây số đường biển nên việc đi lại khám, chữa trị luôn gặp trắc trở, nhất là vào mùa mưa bão. Số người có nhu cầu khám và điều trị bệnh trên đảo luôn quá tải. Giá thuốc Tây ở đây gấp 2 - 3 lần so với đất liền, đó là nỗi lo của nhiều gia đình lao động có thu nhập thấp, nếu rủi ro bị bệnh. Để giúp người dân nghèo trên đảo được chăm sóc sức khỏe và điều trị những bệnh thông thường, xã đã vận động xây dựng một phòng thuốc nam từ thiện đặt tại ấp An Phú (Hòn Ngang). Phòng thuốc này duy trì hoạt động đến nay là nhờ những tấm lòng tương thân tương ái và trách nhiệm cộng đồng của người dân toàn đảo.
Ngày khởi công, người đóng góp vài trăm viên gạch, người biết nghề xây tự nguyện đứng ra thi công, nhiều người dân kéo đến phụ hồ, sàng cát đá… chẳng nề hà mệt nhọc. Ông Huỳnh Hữu Thiện là người biết được một số kiến thức về y học cổ truyền, ông tình nguyện tham gia Hội Chữ thập đỏ ấp để khám và điều trị bệnh cho nhân dân.
Cùng với việc khám chữa bệnh, kê đơn bốc thuốc phục vụ miễn phí cho nhân dân, hàng ngày với vai trò Hội trưởng Hội Người cao tuổi của xã, ông Thiện còn hướng dẫn nhiều cụ già tập dưỡng sinh, ăn uống đều độ để tăng tuổi thọ, giảm huyết áp. Chăm lo thường xuyên phòng thuốc nam từ thiện còn có lương y Nguyễn Hồng Hiền và 2 nhà hảo tâm Nguyễn Thanh Hải và Lý Anh Phú. Riêng anh Hải đã tự nguyện hiến một phần đất của gia đình để xây dựng phòng thuốc nam từ thiện. Mỗi tháng một lần, anh Hải cùng với Anh Phú và một số người dân đi tìm và khai thác các cây thuốc nam ở các hòn lân cận, rồi xuất tiền nhà để làm phí vận chuyển về phòng thuốc phục vụ nhân dân các đảo.
Từ khi phòng thuốc nam từ thiện đi vào hoạt động, kết hợp với trạm y tế xã, phong trào chăm sóc sức khỏe cho người nghèo ở An Sơn đã được quan tâm. Bình quân mỗi tháng có gần 100 bà con các ấp đến khám và hốt thuốc.
21 hòn thuộc quần đảo Nam Du đều có cây cỏ dùng làm thuốc nam với trữ lượng lớn và đa dạng về chủng loại. Tuy nhiên, cần phải được quy hoạch và nhân rộng để bảo tồn phát triển các vườn thuốc nam tại địa phương. Họ rất mong được Hội Y học cổ truyền tỉnh hỗ trợ kiến thức về lĩnh vực này, ví như mở các lớp châm cứu để phục vụ bà con nghèo trên đảo tốt hơn.
Năm 2004 toàn huyện có 2 trạm y tế xã, 2 phòng khám đa khoa khu vực, 1 Trung tâm y tế huyện, 1 đội vệ sinh phòng dịch và 1 đội kế hoạch hoá gia đình. Giường bệnh có 40 giường, trong đó tuyến xã 10 giường. Tỷ lệ bình quân giường bệnh/vạn dân năm 2002 là 18,48 giường bệnh/vạn dân.
Năm 2004 có 7.000 lượt người khám và điều trị bệnh; đến năm 2003 tăng lên 25.400 lượt người, trong đó điều trị nội trú từ 1.028 lượt người. Năm 2004 tỷ lệ miễn dịch cơ bản cho trẻ em dưới 1 tuổi là 100%, số phụ nữ trong diện sinh đẻ được tiêm ngừa uốn ván là 597 người và phụ nữ có thai được tiêm ngừa uốn ván là 608, có 68% dân số trong huyện dùng muối iốt để phòng chống bướu cổ, 100% trẻ từ 6 - 36 tháng tuổi được uống Vitamin A. Số người áp dụng các biện pháp tránh thai tăng đều hàng năm từ 1.057 người đến 1.342 người.
Năm 2004, đã tiến hành 8 cuộc thanh tra về quản lý đất đai, xây dựng cơ bản và sử dụng các nguồn quỹ huy động, kết quả đề nghị xử lý thu hồi nộp ngân sách Nhà nước 22 triệu đồng, đề nghị phê bình kiểm điểm 5 tập thể và 4 cá nhân sai phạm.
Phạm pháp hình sự năm 2004 xảy ra 23 vụ (giảm 3 vụ), điều tra khám phá 23/23 vụ bắt 33 tên; tệ nạn xã hội xảy ra 25 vụ (giảm 22 vụ).
Năm 2004, xét xử án hình sự 15/16, vụ đạt 93,75%, dân sự 25/30 vụ, đạt 83,3%, hôn nhân gia đình 3/4 vụ, đạt 75%; thi hành án xong 126/194 việc, đạt 81,29%, thu hồi số tiền trên 1 tỷ đồng trả Nhà nước và công dân.
6 tháng đầu năm 2005, công tác xây dựng lực lượng dân quân tự vệ và dự bị động viên đạt 5,05% so dân số. Công tác tuyển gọi công dân nhập ngũ đạt 100%.
Từ đầu năm 2005, các phòng ban của huyện được bố trí, sắp xếp lại phù hợp với chức năng nhiệm vụ theo quy định, và thành lập thêm 1 Ban quản lý Dự án đầu tư - xây dựng trực thuộc Ủy ban nhân dân huyện.
Cuối năm 2004, huyện xây dựng quy chế làm việc giữa xã với ấp, ấp làm việc với tổ nhân dân tự quản. Huyện tổ chức được 3 lớp tập huấn cho 200 tổ trưởng, tổ phó, tổ thư ký của tổ nhân dân tự quản học về quản lý Nhà nước.
Năm 2004, huyện có 99,63% cử tri tham gia bầu cử Hội đồng nhân dân 3 cấp nhiệm kỳ 2004 - 2009.
Đánh giá về những tồn tại trong năm 2004, Ủy ban nhân dân huyện Kiên Hải nhận xét: “Những tồn tại yếu kém trên, ngoài tác động của những nguyên nhân chủ quan còn do các nguyên nhân khách quan:
Năng lực tổ chức, quản lý và điều hành của chính quyền chưa chuyển biến kịp thời với tình hình, chưa mạnh dạn đột phá vào những lĩnh vực có tiềm năng của huyện để tạo ra bước phát triển nhanh, vững chắc hơn, nhất là lĩnh vực nuôi trồng thủy sản.
Đội ngũ cán bộ còn thiếu và một bộ phận còn yếu về năng lực thực tiễn, thiếu cán bộ khoa học kỹ thuật và khoa học quản lý nên chưa tạo ra được sức bật mới”.
Riêng ngành giáo dục qua 2 năm (2003 - 2004) thực hiện Chỉ thị 34 của Bộ Chính trị đã kết nạp được 12 đảng viên mới, nâng tỷ lệ đảng viên chiếm tỷ lệ 12,4% lực lượng cán bộ giáo viên trong ngành.
Công tác bảo vệ nội bộ Đảng được tiến hành thận trọng gắn với đấu tranh chống tiêu cực, làm cho nội bộ Đảng trong sạch, giữ nghiêm kỷ luật trong toàn Đảng bộ. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đã đưa 10 đồng chí đi học lớp cử nhân chính trị, 18 đồng chí đi học cao cấp chính trị, 36 đồng chí trung cấp, 160 lượt đồng chí đi học các lớp nghiệp vụ chuyên môn, 117 đồng chí học các lớp chính trị phổ thông.
Năm 2004, công tác kiểm tra đảng viên và tổ chức thực hiện Điều lệ Đảng được quan tâm hơn, đã kiểm tra 21 lượt cơ sở đảng với trên 60 đảng viên, trong đó có 16 đồng chí là cấp ủy viên.
Tiến hành xem xét xử lý kỷ luật 29 trường hợp, trong đó có 2 huyện ủy viên và 6 cấp ủy viên cơ sở (khiển trách 5, cảnh cáo 13, cách chức 2, khai trừ 6, xóa tên 3). Kết quả công tác kiểm tra và xử lý đảng viên vi phạm kỷ luật có tác dụng giáo dục chung trong Đảng bộ.
Cuối năm 2004 và đầu năm 2005, huyện đã quy hoạch xong các chức danh dự nguồn cán bộ cho cấp ủy huyện, xã và cán bộ chủ chốt các đoàn thể theo Đề án 389 của Tỉnh ủy.
Năm 2005, tỉnh bổ nhiệm 4 chức danh trưởng, phó ban ngành cấp huyện, đưa đi đào tạo các lớp chính trị 20 người; cho học bổ túc văn hoá cấp III cho 52 cán bộ ở cơ sở; mở một lớp bồi dưỡng sơ cấp lý luận chính trị cho đảng viên mới kết nạp vào Đảng, 2 lớp nhận thức về Đảng cho 140 quần chúng ưu tú.
Trong năm 2004, huyện phát triển 46 đảng viên mới, xoá được 2/3 ấp trắng không có đảng viên. Cuối năm 2004, huyện tiến hành phân loại các tổ chức Đảng ở cơ sở, kết quả có 13 tổ chức cơ sở Đảng đạt trong sạch, vững mạnh (có 6 tổ chức đảng được biểu dương khen thưởng), 2 tổ chức đảng đạt khá và 1 tổ chức cơ sở Đảng đạt trong sạch, vững mạnh 5 năm liền được tỉnh khen thưởng.
Ngày 3 tháng 2 năm 2005, huyện tổ chức đổi thẻ đảng viên theo Chỉ thị 29-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng và Kế hoạch 34 của Tỉnh ủy được 3 đợt, có 223/234 đảng viên đủ tư cách đổi thẻ, chiếm 95,3%.
Thực hiện Quy định 76 của Bộ Chính trị, “về việc đảng viên thường xuyên giữ mối liên hệ và gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân nơi cư trú”; đến năm 2005, toàn đảng bộ có 12/12 chi đảng ủy cơ quan, đơn vị sự nghiệp và lực lượng vũ trang trên địa bàn huyện giới thiệu 149/159 đảng viên về sinh hoạt nơi cư trú, đạt 93,7%.
Năm 2004, ấp Củ Tron vẫn còn là ấp trắng chưa có đảng viên phụ trách.
Năm 2004, số đảng viên vi phạm Điều lệ Đảng phải bị thi hành kỷ luật là 4 trường hợp, giảm 50% so với năm 2003.
Tháng 9 năm 2003, Tỉnh ủy tăng cường một số cán bộ về huyện và bổ sung Ban Chấp hành Huyện ủy gồm các đồng chí: đồng chí Hồ Minh Tuấn, nguyên Ủy viên Ủy ban kiểm tra Tỉnh ủy, Chánh Văn phòng Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy, bổ sung làm Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy; đồng chí Nguyễn Khải Hoàng, nguyên chuyên viên Ban Tổ chức Tỉnh ủy, làm Huyện ủy viên, Trưởng Ban Tuyên giáo Huyện ủy; đồng chí Nguyễn Văn Chẹt, Huyện ủy viên, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Huyện ủy; đồng chí Trịnh Văn Quang, Huyện ủy viên, Trưởng Phòng Giáo dục huyện; đồng chí Đoàn Hồng Duy, Huyện ủy viên, Trưởng Phòng Tài chánh Kế hoạch và đồng chí Lê Minh Công, Huyện ủy viên, Bí thư xã An Sơn. Sau một thời gian, đồng chí Hồ Minh Tuấn, Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy được bầu làm Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện; đồng chí Trần Mười Lớn, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện làm Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy.
Đầu năm 2005, Hội Nông dân huyện mở một lớp tập huấn chuyển giao khoa học kỹ thuật cho nông dân và vận động quyên góp xây dựng lộ giao thông nông thôn trị giá trên 80 triệu đồng; đoàn thanh niên đã tổ chức tốt chiến dịch thanh niên, học sinh, sinh viên tình nguyện hè năm 2005.
Hội phụ nữ huyện đã lập 10 dự án đề nghị Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện và Ngân hàng chính sách cho 138 chị vay vốn với số tiền trên 577 triệu đồng.
Thực hiện Đề án 389 của Tỉnh ủy về nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể ở cơ sở, đầu năm 2005 huyện phát triển mới được 1.365 đoàn viên, hội viên, nâng tổng số đoàn viên, hội viên toàn huyện lên 9.522 người, chiếm 45,60% dân số; xây dựng và củng cố được 6 chi đoàn với mô hình chi đoàn có 30 đoàn viên; tổ chức hội thi “Dân vận khéo” cấp huyện lần thứ nhất; tổ chức Đại hội Hội làm vườn cấp huyện lần thứ nhất; Đại hội Hội Liên hiệp Thanh niên huyện lần thứ IV, nhiệm kỳ 2004-2009, diễn ra đạt yêu cầu.
Ngày 23 tháng 6 năm 2005, tại các đảo của 3 xã An Sơn, Lại Sơn và Hòn Tre bất ngờ xảy ra sóng to kèm theo mưa và lốc đã nhận chìm 178 tàu (có 36 tàu bị thiệt hại 100%), thiệt hại lên đến 3 tỷ đồng, ảnh hưởng trực tiếp đến 150 gia đình, trong đó có nhiều gia đình nghèo.
Ngày 24 tháng 6, Tỉnh ủy đã có Công văn gởi đến huyện Kiên Hải chia sẻ khó khăn với huyện, Công văn nêu rõ: “Tỉnh ủy rất quan tâm và chia sẻ những khó khăn đối với các gia đình bị thiên tai; đồng thời biểu dương, khen ngợi cấp ủy, chính qyền, các đoàn thể và các lực lượng vũ trang huyện Kiên Hải, các xã nơi xảy ra thiên tai đã kịp thời lãnh đạo, huy động các nguồn lực tại chỗ cùng với bà con nhân dân giúp đỡ các gia đình bị thiên tai trục vớt tài sản, phương tiện bị chìm và sớm ổn định đời sống, sinh hoạt”.
Ngày 29 tháng 12 năm 2005, Ban Chấp hành Đảng bộ họp tổng kết việc thực hiện nghị quyết Đại hội. Hội nghị cho rằng nhiều chỉ tiêu về kinh tế, xã hội đều thực hiện khá tốt, phần lớn đều đạt và vượt chỉ tiêu đề ra.
Về hải sản, tiếp tục huy động được các thành phần kinh tế đầu tư phát triển sản xuất, nuôi trồng, từ đó tạo cho ngành hải sản tiếp tục đạt được mức tăng trưởng khá, nhất là nghề cào đôi khai thác xa bờ.
Theo đánh giá của Huyện ủy, đến cuối năm 2005, toàn huyện có 685 phương tiện đánhh bắt hải sản với tổng công suất là 104.214 CV (bình quân 152, 13CV/phương tiện), tăng 7 phương tiện so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng khai thác đạt 50.937 tấn, vượt 1,87% kế hoạch. Riêng nuôi trồng hải sản, toàn huyện hiện có 29 hộ nuôi 34 lồng bè, sản xuất được 27 tấn cá thương phẩm, chủ yếu là cá mú và cá bớp, tập trung ở Hòn Tre và An Sơn.
Trên lĩnh vực nông lâm nghiệp, nông dân tiếp tục cải tạo vườn tạp, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, chất lượng cây trồng, vật nuôi được nâng lên mang lại nhiều hiệu quả. Trong phong trào sản xuất, kinh doanh giỏi có 414 hộ đạt danh hiệu (cấp cơ sở, huyện, tỉnh và trung ương), trong đó có 12 hộ đạt mô hình thu nhập trên 50 triệu đồng/ha/năm. Nông dân xã Lại Sơn trồng được 33.000 cây dó bầu và đang thử nghiệm một số mô hình nuôi trồng khác.
Công tác quản lý, bảo vệ rừng tiếp tục được quan tâm chỉ đạo, thực hiện tốt, tình hình cháy rừng không xảy ra, tình trạng chặt phá cây rừng giảm đáng kể.
Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp cũng có sự tăng trưởng khá và ổn định. Lộ giao thông nông thôn từng bước được hoàn thiện. Giao thông, bưu điện cơ bản đã đáp ứng nhu cầu đi lại và liên lạc của nhân dân.
Qua tổng kết việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 về tiếp tục đổi mới, phát triển, nâng cao kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, cuối năm 2005 toàn huyện đã thành lập được 14 chi, tổ đội gồm các hoạt động nghề nghiệp như làm vườn, sản xuất nước mắm, chăn nuôi, nuôi cá lồng bè... có 316 hội viên và 92 doanh nghiệp, 411 hộ kinh doanh cá thể tham gia hoạt động góp phần tích cực vào việc phát triển kinh tế-xã hội của địa phương.
Các chính sách xã hội đã có sự lãnh đạo tập trung thực hiện tốt công tác xóa đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm, chăm lo chính sách đối với người có công, nhất là các gia đình chính sách... Nhân các ngày lễ, tết, kỷ niệm ngày thương binh liệt sĩ năm 2005, huyện đã tặng 163 suất quà trị giá 13 triệu đồng, cấp 276 thẻ bảo hiểm cho người nghèo và 12 thẻ bảo hiểm y tế cho người cao tuổi.
Thực hiện cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa và thực hiện qui chế dân chủ ở cơ sở”, đặc biệt là vận động nhân dân ủng hộ quỹ “Vì người nghèo, bảo trợ người già neo đơn...”, xây dựng nhà “đại đoàn kết” và các mô hình giúp nhau làm kinh tế... đã góp phần giải quyết việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, căn bản xóa được nhà tạm bợ cho các hộ nghèo.
Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân luôn được quan tâm, kịp thời tăng cường đội ngũ y, bác sĩ ở tuyến y tế cơ sở, phục vụ tốt các yêu cầu khám chữa bệnh của nhân dân. Các chương trình y tế như tiêm chủng mở rộng, phòng chống sốt rét, phòng chống bệnh xã hội, phòng chống suy dinh dưỡng ở trẻ em được thực hiện khá tốt, ngăn chặn kịp thời tác hại do dịch bệnh gây ra. Công tác vệ sinh an toàn thực phẩm cũng được quan tâm thường xuyên, nhất là việc phối hợp triển khai thực hiện phòng chống dịch cúm gia cầm H5N1 nên trong huyện không xảy ra dịch bệnh trên.
Hơn 22 năm thành lập và phát triển, Đảng bộ và quân dân Kiên Hải đã giành được nhiều thành tựu đáng kể, an ninh được bảo đảm, chính trị ổn định, nhân dân an tâm sản xuất xây dựng cuộc sống, kinh tế tăng trưởng ngày càng khá, tỷ lệ người nghèo ngày càng giảm đáng kể, đặc biệt là xóa trắng nhà xiêu vẹo, phúc lợi xã hội ngày càng được nâng lên...
Những cống hiến của Đảng bộ và quân dân Kiên Hải đã được Đảng và Nhà nước ghi nhận. Năm 2003, quân dân Kiên Hải vinh dự được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng ba. Kiên Hải có 3 bà mẹ được Nhà nước phong tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” (phong tặng vào các năm 1994 và 2009), 22 cán bộ, chiến sĩ được Nhà nước tặng huân chương “Vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
CHƯƠNG X
KIÊN HẢI, THỜI KỲ 2005 - 2015
1. Kiên Hải trong thời kỳ 2005 - 2010
Sau hơn 20 năm thành lập huyện, các hoạt động kinh tế, văn hóa, chính trị - xã hội, quốc phòng - an ninh, xây dựng Đảng có những chuyển biến tiến bộ. Trước yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng ngày càng cao, đòi hỏi Đảng bộ, quân và dân Kiên Hải quyết tâm khắc phục khó khăn, tận dụng thời cơ, tập trung mọi nguồn lực để xây dựng Kiên Hải phát triển toàn diện và bền vững.
Từ ngày 10 đến ngày 12-10-2005, Đảng bộ huyện Kiên Hải tiến hành Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ VI, nhiệm kỳ 2005-2010 tại Hội trường Ủy ban nhân dân huyện. Có 81 đại biểu thay mặt cho 16 chi, đảng bộ trực thuộc và 350 đảng viên trong huyện tham dự.
Đánh giá tình hình của huyện sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ V, Đại hội thống nhất khẳng định những thành tựu nổi bật trong 5 năm (2000-2005):
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và đã biết phát huy thế mạnh là khai thác tiềm năng lợi thế của địa phương.
- Kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội được tăng cường đầu tư: điện, nước, trường học, trạm y tế, cầu cảng, giao thông nông thôn được nối liền giữa khu dân cư, đã tạo điều kiện thuận lợi cho bước phát triển mới, đời sống của nhân dân được cải thiện, bộ mặt dân cư trên các xã đảo có nhiều thay đổi.
- Quốc phòng-an ninh được tăng cường giữ vững ổn định.
- Hệ thống chính trị tiếp tục được tập trung củng cố kiện toàn.
- Bộ máy chính quyền phát huy tốt hiệu quả quản lý nhà nước bằng pháp luật.
- Công tác xây dựng đảng có chuyển biến tích cực, chất lượng được nâng lên; tổ chức cơ sở đảng trong sạch vững mạnh ngày càng tăng.
Cùng với những thành tựu nổi bật đã đạt được, Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ VI cũng thẳng thắn chỉ rõ những mặt hạn chế, yếu kém, đó là:
Tăng trưởng kinh tế cao nhưng chưa đồng đều giữa các xã; chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp, thương nghiệp-dịch vụ còn chậm; nuôi trồng hải sản và cải tạo vườn tạp phát triển chậm; kết cấu hạ tầng còn nhiều yếu kém. Đời sống của một bộ phận nhân dân vẫn còn khó khăn, trình độ dân trí còn thấp. Trật tự an toàn xã hội từng lúc, từng nơi còn xảy ra phức tạp. Hệ thống chính trị chưa đáp ứng kịp với yêu cầu nhiệm vụ. Phương thức lãnh đạo điều hành của cấp ủy đảng, chính quyền các cấp còn nhiều mặt hạn chế; vẫn còn số ít cán bộ, đảng viên vi phạm pháp luật, vi phạm phẩm chất đạo đức, lối sống, một số thiếu ý chí phấn đấu vươn lên, tinh thần trách nhiệm kém.
Đại hội VI đã rút ra bốn bài học chủ yếu của giai đoạn 2000-2005:
- Phải xác định đúng tiềm năng và lợi thế so sánh để quy hoạch, định hướng từng giai đoạn phát triển phù hợp và tập trung nguồn lực đầu tư là yếu tố quan trọng quyết định tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và bền vững.
- Vận dụng những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước để khuyến khích, thu hút các thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển kinh tế-xã hội. Đồng thời phải biết tranh thủ nguồn vốn của cấp trên để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng.
- Phải biết kết hợp giữa phát triển kinh tế với phát huy tính tự lực, tự cường, khơi dậy truyền thống tương thân tương ái, sự đóng góp của các thành phần kinh tế, từ các tổ chức, cá nhân để tham gia bảo trợ xã hội.
- Phải thường xuyên quan tâm xây dựng và giữ gìn sự đoàn kết nhất trí trong nội bộ, nâng cao chất lượng hoạt động hệ thống chính trị, nhất là hệ thống chính trị ở cơ sở thật sự trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới; gắn với quy hoạch, đào tạo đội ngũ cán bộ là khâu then chốt quyết định trực tiếp đến kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị.
Đại hội đã tập trung thảo luận, góp ý vào văn kiện trình Đại hội đại biểu lần thứ VIII Đảng bộ tỉnh. Trên cơ sở phân tích, đánh giá nghiêm túc tình hình thực hiện nghị quyết Đảng bộ lần thứ V, Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ VI đề ra phương hướng, nhiệm vụ chung nhiệm kỳ 2005-2010 là: Tập trung phát triển kinh tế theo hướng: ngư nghiệp, thương mại dịch vụ-du lịch, tiểu thủ công nghiệp, nhất là tăng tỷ trọng thương mại dịch vụ-du lịch; phát triển chiều sâu và toàn diện kinh tế biển gắn chặt với việc bảo vệ quốc phòng-an ninh và chủ quyền biển đảo, tạo mọi điều kiện thuận lợi huy động tối đa nguồn lực tại chỗ và nguồn lực bên ngoài vào đầu tư khai thác có hiệu quả tiềm năng lợi thế của địa phương. Nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo, nâng cao dân trí gắn với thực hiện có hiệu quả các vấn đề về chính sách xã hội; nâng cao đời sống vật chất và tinh thần trong nhân dân. Tiếp tục củng cố và xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Nâng cao hơn nữa công tác dân vận của Đảng, chính quyền và chất lượng hoạt động của mặt trận, các đoàn thể nhân dân. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý điều hành của bộ máy chính quyền từ huyện đến cơ sở. Thực hiện cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2), nâng cao chất lượng lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và đảng viên. Xây dựng đội ngũ cán bộ đảng viên, đặc biệt là cán bộ chủ chốt từ huyện đến cơ sở ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ. Giữ gìn mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, chính quyền, mặt trận và các đoàn thể với nhân dân, phát huy dân chủ, tạo điều kiện để nhân dân tham gia thực hiện trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Trên cơ sở phương hướng, nhiệm vụ chung, Đại hội đề ra các chỉ tiêu cụ thể về kinh tế - xã hội đến năm 2010: GDP bình quân đầu người đạt từ 1.400 USD trở lên; khai thác và nuôi trồng hải sản đạt 62.630 tấn (trong đó, nuôi trồng thủy sản đạt 130 tấn); chế biến nước mắm đạt 15 triệu lít (bình quân mỗi năm là 3 triệu lít); chuyển dịch cơ câu kinh tế theo tỷ trọng ngư-nông-lâm nghiệp chiếm 48,84%, thương mại dịch vụ-du lịch chiếm 29%, tiểu thủ công nghiệp chiếm 22,16%. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên 1,25%; giải quyết việc làm cho từ 600 đến 700 lao động, trong đó tỷ lệ lao động qua đào tạo chiếm 20%; huy động học sinh từ 6-14 tuổi đến trường đạt 95% trở lên, hoàn thành công tác phổ cập trung học cơ sở vào năm 2008; tỷ lệ hộ nghèo dưới 2%. 100% trung tâm xã có đường bê tông và mở rộng các tuyến đường đến khu dân cư; 80% dân số trở lên được sử dụng nước sạch; 97% số hộ được sử dụng điện; 57% nhà kiên cố và bán kiên cố, 100% hộ có phương tiện nghe nhìn; 50% xã đạt chuẩn xã văn hóa.
Về xây dựng Đảng, đến năm 2010: toàn huyện có trên 85% tổ chức cơ sở đảng đạt trong sạch, vững mạnh, không có tổ chức cơ sở đảng yếu kém; đảng viên hoàn thành và hoàn thành tốt nhiệm vụ đạt trên 95%. Nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể, có từ 70% trở lên chi, tổ hội đạt khá, xuất sắc. Phát triển đoàn viên, hội viên, chú ý đến chất lượng, tập hợp 60% đối tượng quần chúng vào các tổ chức đoàn thể chính trị.
Để bảo đảm thực hiện phương hướng, chỉ tiêu, Đại hội VI đã thông qua ba giải pháp mang tính đột phá:
Một là, phát triển nguồn nhân lực phục vụ khai thác tiềm năng, lợi thế của huyện và yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong đó, đặc biệt quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị, có trình độ năng lực thực tiễn về khai thác, chế biến, nuôi trồng hải sản và quản lý, khai thác du lịch.
Hai là, khuyến khích các thành phần kinh tế vào đầu tư, mở rộng liên kết với nguồn lực trong và ngoài huyện, trong đó chú trọng lĩnh vực thương mại và dịch vụ.
Ba là, nâng cao năng lực lãnh đạo quản lý và chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị; xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.
Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khóa VI, nhiệm kỳ 2005-2010 gồm 29 đồng chí. Đồng chí Đoàn Văn Tiết được bầu làm Bí thư Huyện ủy (11).
Từ ngày 07 đến ngày 09-12-2005, tại Hội trường Tỉnh ủy diễn ra Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ VIII, nhiệm kỳ 2005-2010. Có 297 đại biểu thay mặt cho 17 đảng bộ trực thuộc và 21.623 đảng viên trong tỉnh tham dự. Đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng về dự và chỉ đạo Đại hội.
Với chủ đề đại hội của trí tuệ, đoàn kết, đổi mới kỷ cương, phát triển nhanh và bền vững. Đại hội đã thảo luận và thông qua báo cáo chính trị; báo cáo phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội 5 năm
2005 - 2010; báo cáo công tác xây dựng Đảng… Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa VIII, nhiệm kỳ 2005 - 2010 gồm 49 đồng chí. Ban Thường vụ gồm 13 đồng chí, đồng chí Trương Quốc Tuấn được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy.
Thực hiện nghị quyết Đảng bộ tỉnh lần thứ VIII và nghị quyết Đảng bộ huyện lần thứ VI, Đảng bộ và nhân dân Kiên Hải có những thuận lợi cơ bản. Đó là: chính trị xã hội ổn định; kinh tế của huyện có mức tăng trưởng khá; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân từng bước được cải thiện. Các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước được cụ thể hoá ngày càng sát với tình hình thực tế của địa phương, tạo được sự đồng thuận trong nhân dân.
Tuy nhiên, bất lợi của huyện trong thời kỳ này là ngư trường ngày càng cạn kiệt; kết cấu hạ tầng còn yếu kém; thiếu nguồn lực về tài chính, cán bộ kỹ thuật có tay nghề, mặt bằng dân trí còn thấp; xã hội còn nhiều vấn đề bức xúc đặt ra cần tập trung giải quyết, nhất là giải quyết việc làm cho người lao động; hệ thống chính trị ở cơ sở chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Trước tình hình đó, để thực hiện thắng lợi nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ VI, Ban Thường vụ chỉ đạo các cấp ủy Đảng, chính quyền, ban, ngành, đoàn thể trong toàn huyện tập trung lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội làm nền tảng, phát triển văn hóa – xã hội, giữ vững an ninh chính trị, đảm bảo quốc phòng an ninh.
Thời kỳ 2005-2010, Kiên Hải tập trung phát triển kinh tế theo hướng ngư nghiệp, thương mại dịch vụ - du lịch, tiểu thủ công nghiệp. Trong đó, các ngành ngư nghiệp, thương mại dịch vụ - du lịch, tiểu thủ công nghiệp được xác định là nền kinh tế mũi nhọn của huyện. Phát triển ngành hải sải theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, do đó phải huy động mọi nguồn vốn phát triển đội tàu khai thác khơi xa với các trang thiết bị hiện đại để khai thác tiềm năng và thế mạnh vốn có của địa phương. Bên cạnh việc đầu tư khai thác hải sản xa bờ, Kiên Hải chú trọng nuôi trồng hải sản, phát triển du lịch và các loại hình dịch vụ; quy hoạch ngư trường đánh bắt và khu vực nuôi trồng thuỷ sản.
Để đạt sản lượng khai thác và nuôi trồng đạt 62.630 tấn, Ban Thường vụ Huyện ủy đã chỉ đạo tập trung mọi nguồn lực để phát triển đội tàu khai thác xa bờ đạt công suất 140.000 CV vào năm 2010. Tăng cường phát triển nuôi trồng các loại hải sản có giá trị kinh tế cao như: cá mú, cá bớp, cá chẽm, ghẹ, ốc hương... ở vùng ven các đảo và khu vực quần đảo Nam Du.
Những năm 2005 - 2010, mặc dù thời tiết không ổn định, giá cả luôn biến động, nhất là giá xăng dầu tăng cao... Nhưng nhờ xác định đúng trọng tâm, trọng điểm cùng với sự với quyết tâm của Đảng bộ, điều hành quyết liệt của chính quyền nên nền kinh tế nông-lâm-thuỷ sản của huyện tăng trưởng bình quân 7,63%/năm và giữ vai trò quyết định tốc độ tăng trưởng kinh tế của huyện. Đến năm 2010, toàn huyện Kiên Hải có 1.694 phương tiện khai thác hải sản (tăng trên 400 phương tiện so với đầu nhiệm kỳ); nuôi trồng thủy sản phát triển mạnh với số lượng lồng bè tăng gấp 10 lần so với đầu nhiệm kỳ, đưa sản lượng cá thả nuôi các loại lên 200 tấn, tăng 7,41 lần so với đầu nhiệm kỳ.
Thương mại - dịch vụ - du lịch của huyện hàng năm đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 20,48%, hàng hoá đa dạng và phong phú. Đặc biệt, khi huyện chủ trương quy hoạch và kêu gọi đầu tư xây dựng các khu du lịch trọng điểm ở Bãi Chén (Hòn Tre), Bãi Bàn (Lại Sơn) đã thu hút một lượng lớn khách du lịch ra đảo. Nhờ đó, tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ của huyện đến năm 2010 được 426 tỷ đồng, vượt chỉ tiêu Nghị quyết và tăng 3,6 lần so với đầu nhiệm kỳ; giá trị sản xuất thương mại - dịch vụ - du lịch tăng 2,53 lần so với đầu nhiệm kỳ.
Nghị quyết Đảng bộ Kiên Hải, lần thứ VI ghi: “Bố trí hợp lý việc sử dụng đất theo quy hoạch, trồng các loại cây ăn trái phù hợp với từng loại đất, khuyến khích nhân dân cải tạo vườn tạp, mở rộng diện tích, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, đảm bảo quanh năm đều có trái cây”. Nhân dân tiếp tục cải tạo vườn tạp, mở rộng diện tích sản xuất, phát triển vườn rẫy với nhiều loại cây ăn trái có giá trị kinh tế cao, như sản lượng xoài đạt 979 tấn, hồ tiêu đạt 20,8 tấn; mở rộng diện tích trồng cây dó bầu lên 80 ha với 100.000 cây.
Công tác bảo vệ tài nguyên, môi trường được Đảng bộ quan tâm chỉ đạo. Với phương châm vừa bảo vệ diện tích rừng hiện hữu vừa trồng mới nên trong 5 năm
(2005 - 2010) huyện đã trồng trên 120 ha rừng, góp phần nâng cao độ che phủ rừng và phủ xanh đất trống, đồi trọc. Công tác kiểm kê đất đai đều hoàn thành theo kế hoạch hàng năm.
Một trong những bất lợi của huyện là cơ sở hạ tầng còn nhiều bất cập nên giai đoạn 2005 - 2010, Kiên Hải bố trí gần 400 tỷ đồng để phát triển cơ sở hạ tầng. Các công trình đường quanh đảo Hòn Tre, khu lấn biển và khu neo đậu tránh trú bão cho tàu cá ở Hòn Tre, bến cặp tàu Hòn Tre và Lại Sơn, bệnh viện huyện, trạm y tế, trường học, trụ sở làm việc và nhà công vụ của các xã, lộ giao thông nông thôn, đường quanh đảo Lại Sơn được đồng loạt triển khai xây dựng. Đến năm 2007, trụ sở Đảng ủy xã Lại Sơn, kho Lưu trữ của UBND huyện, tuyến lộ Bãi Nhà – Thiên Tuế xã Lại Sơn, Bãi Trệt – Bãi Cỏ xã An Sơn đã hoàn thành, đưa vào sử dụng. Ở mỗi xã, đều được huyện trang bị từ 2 đến 3 máy phát điện với tổng công suất 2.255 KVA, đến năm 2010, tất cả các ấp đều có điện sử dụng. Toàn huyện có 3 trạm cấp nước tập trung ở các xã Hòn Tre, An Sơn và Lại Sơn phục vụ cho khoảng 85,5% dân số của huyện. 75% lộ giao thông nông thôn được bê tông hoá; 100% phòng học được xây dựng kiên cố. Huyện hoàn thành công tác xóa phòng học được xây dựng tạm bợ bằng cây lá. Những công trình này đã góp phần làm thay đổi diện mạo và đời sống của người dân huyện đảo Kiên Hải.
Bên cạnh đó, huyện cũng công bố quy hoạch trung tâm thị trấn Hòn Tre, các khu dân cư nông thôn ở Bãi Giếng - Lại Sơn, Hòn Ngang - Nam Du để nhân dân giám sát.
Hoạt động của ngành giao thông-bưu chính-viễn thông tăng nhanh về số lượng và chất lượng, đáp ứng yêu cầu phục vụ người dân. Đến năm 2010, toàn huyện có 278 phương tiện vận chuyển, hàng năm vận chuyển trên 37,31 ngàn tấn hàng hoá và 420 ngàn lượt hành khách. Mạng lưới thông tin liên lạc luôn được thông suốt, đảm bảo nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội, quốc phòng - an ninh của địa phương. Nhu cầu sử dụng điện thoại của người dân tăng nhanh từ 2.736 máy điện thoại, bình quân 12,95 máy/100 dân, 32 máy được kết nối Internet (năm 2006) tăng lên 4.200 máy điện thoại, bình quân đạt 19,27 máy/100 dân, 78 máy được kết nối Internet (năm 2007) và tăng nhanh lên 7.000 máy điện thoại, bình quân 32,47 máy/100 dân, trong đó có 372 máy được kết nối mạng Internet vào năm 2010; mạng điện thoại di động được phủ sóng trên khắp địa bàn huyện.
Tài chính ngân sách: Trong 5 năm (2005 - 2010), Kiên Hải huy động được 1.267 tỷ đồng, gấp 2,53 lần so với chỉ tiêu Nghị quyết. Công tác thu, chi ngân sách Nhà nước của huyện được công khai, dân chủ, đi vào nề nếp, đảm bảo tiết kiệm, chi theo dự toán được duyệt, phục vụ tốt yêu cầu nhiệm vụ chính trị - kinh tế của địa phương, nhất là đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông, điện, đường, trường, trạm...
Các thành phần kinh tế tiếp tục được Ban Thường vụ Huyện ủy quan tâm tạo điều kiện phát triển, nhất là kinh tế tư nhân. Đến năm 2010, toàn huyện có trên 50 doanh nghiệp và 900 cơ sở kinh doanh cá thể với tổng số vốn đầu tư trên 300 tỷ đồng, hàng năm đóng góp từ 25-30% trong cơ cấu GDP của huyện.
Những kết quả trên cho thấy, kinh tế của huyện Kiên Hải trong những năm 2005 - 2010 có mức tăng trưởng khá và ổn định. Tổng sản phẩm (GDP) bình quân đầu người 1.545 USD vượt chỉ tiêu Nghị quyết (Nghị quyết 1.400 USD), tăng trưởng bình quân đạt 14,06% (vượt 1,87% so với Nghị quyết đề ra). Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng nâng dần tỷ trọng khu vực thương mại - dịch vụ - du lịch, chiếm 32,73% (tăng 9,82%); công nghiệp-xây dựng, chiếm 26,65% (tăng 4,86%); nông - lâm - thuỷ sản, chiếm 43,62%.
Kinh tế tăng trưởng đã thúc đẩy hoạt động văn hóa - xã hội chuyển biến tích cực. Đời sống phần lớn nhân dân huyện đảo được cải thiện nâng lên; tỷ lệ hộ nghèo từ 2,5% năm 2005 giảm xuống còn 0,52% năm 2009; bình quân hàng năm giải quyết việc làm cho hơn 600 lao động; tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề từ 14% năm 2005 tăng lên 20% năm 2010. Trong 5 năm, từ 2005 đến 2010, Kiên Hải dành 1,053 tỷ đồng để cất mới và sửa chữa nhà tình nghĩa, nhà tình thương, nhà đại đoàn kết 197 căn cho các gia đình chính sách, gia đình có hoàn cảnh khó khăn; trợ cấp thường xuyên cho các gia đình chính sách, người già neo đơn, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn.
Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân được huyện quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, nâng cấp trang thiết bị, tăng cường đội ngũ y, bác sĩ. Hàng năm, ngành y tế của huyện khám và điều trị bệnh cho khoảng 40.000 lượt người. Song song với công tác khám và điều trị bệnh, huyện cũng thực hiện tốt các chương trình y tế quốc gia. Đến năm 2010, tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng ở Kiên Hải giảm còn dưới 12%; tỷ lệ tăng dân số tự nhiên giảm còn 1,32%.
Giáo dục và đào tạo có nhiều chuyển biến tích cực, đến năm 2010 toàn huyện Kiên Hải có 08 trường với 102 phòng học (tăng 01 trường, 14 phòng học so với đầu nhiệm kỳ), trong đó có 04 trường đạt tiêu chí xanh -
sạch - đẹp. Chất lượng dạy và học được nâng lên, đội ngũ giáo viên các cấp học đạt chuẩn 100%; tỷ lệ huy động học sinh từ 6 - 14 tuổi đến trường đạt 98% (riêng 6 tuổi đạt 100%); công tác phổ cập giáo dục trung học cơ sở cơ bản thực hiện hoàn thành, 4/4 xã đều đạt chuẩn; kết quả học sinh tốt nghiệp, lên lớp, tỷ lệ học sinh trúng tuyển vào các trường đại học hàng năm đều tăng lên.
Các hoạt động văn hóa - văn nghệ, thể dục - thể thao trên địa bàn huyện luôn diễn ra sôi nổi. Đặc biệt là Lễ hội Nghinh Ông tại xã Lại Sơn hàng năm được tổ chức chu đáo, thu hút được đông đảo nhân dân trong và ngoài huyện tham gia. Năm 2007, nhân Đại hội Thể dục - Thể thao tỉnh lần thứ V, huyện cử đoàn thể thao tham dự; kết quả đạt 01 huy chương vàng và 03 huy chương đồng, hoàn thành chỉ tiêu đề ra.
Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” được huyện quán triệt cho cán bộ, công chức, các cơ quan, đơn vị và vận động toàn dân tích cực tham gia. Tổng kết 5 năm (2005-2010) toàn huyện có 3.796 hộ gia đình được công nhận đạt tiêu chuẩn gia đình văn hoá; có 93/109 được công nhận tổ văn hoá; 10/13 ấp được công nhận ấp văn hoá; 74/75 đơn vị được công nhận đơn vị văn hoá. Năm 2007, xã Hòn Tre được công nhận là xã có phong trào văn hoá tốt nhất của huyện.
Lãnh đạo công tác quốc phòng – an ninh và nội chính được cấp ủy thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo. Các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về nhiệm vụ quốc phòng, quân sự địa phương được quán triệt, cụ thể hóa và triển thai thực hiện đạt kết quả tốt. Trong đó, luôn kết hợp chặt chẽ giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế với quốc phòng-an ninh; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân; xây dựng huyện thành khu vực phòng thủ vững chắc góp phần giữ vững khu vực phòng thủ của tỉnh. Hàng năm, Ban Thường vụ Huyện ủy đều chỉ đạo Đảng ủy Quân sự huyện bổ sung hoàn chỉnh các kế hoạch sẵn sàng chiến đấu phù hợp với tình hình thực tế của huyện; chỉ đạo các ngành tuyên truyền giáo dục trong nhân dân nâng cao ý thức cảnh giác trước những âm mưu “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch; giữ vững ổn định tình hình chính trị và trật tự an toàn xã hội trên vùng biển.
Công tác huấn luyện, diễn tập, xây dựng lực lượng dự bị động viên, dân quân tự vệ được cấp ủy, chính quyền chú trọng. Hàng năm, công tác huấn luyện đều đạt kế hoạch, trong đó đối với lực lượng dân quân tự vệ đạt 80% trở lên và dự bị động viên đạt từ 97% trở lên.
Lực lượng thường trực được xây dựng và nâng cao chất lượng về mọi mặt. Lực lượng dân quân tự vệ và dự bị động viên từng bước được kiện toàn, nâng cao chất lượng hoạt động. Đến năm 2010, huyện đã xây dựng được lực lượng dân quân tự vệ đạt 1,94% so với dân số; ở các cơ quan đều thành lập được lực lượng tự vệ với số lượng hợp lý; tỷ lệ đảng viên trong lực lượng dân quân tự vệ tăng từ 5,1% năm 2005 lên 11,5% năm 2010 và trong lực lượng dự bị động viên là 5,4%; các xã đều thành lập chi bộ quân sự.
Giáo dục quốc phòng – an ninh được cấp ủy, chính quyền quan tâm chỉ đạo tạo được chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức trong cả hệ thống chính trị và nhân dân trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
Công tác tuyển gọi công dân nhập ngũ hàng năm đều đạt chỉ tiêu trên giao, đúng luật, dân chủ và công bằng. Công tác phát triển đảng viên mới trong lực lượng vũ trang được chú trọng, tăng cường. Công tác hậu phương quân đội và chính sách đãi ngộ người có công trong kháng chiến luôn được cấp ủy, chính quyền quan tâm lãnh đạo thực hiện tốt, góp phần xây dựng thế trận lòng dân ngày càng vững chắc.
Nhiệm vu bảo vệ an ninh chính trị và giữ gìn trật tự an toàn xã hội được Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo triển khai đồng bộ, có hiệu quả. Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc được đẩy mạnh và có bước phát triển, trong đó mô hình tổ nhân dân tự quản “không tội phạm và tệ nạn xã hội” bước đầu phát huy tác dụng, góp phần giữ vững ổn định tình hình an ninh trật tự ở địa phương.
Lực lượng công an cơ sở được củng cố kiện toàn, chất lượng được nâng lên. Nhờ đó, thực hiện có hiệu quả trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, giải quyết kịp thời các tệ nạn xã hội; giữ gìn trật tự an toàn giao thông, quản lý nhân khẩu, phòng cháy chữa cháy, quản lý vũ khí, vật liệu nổ luôn được đảm bảo, từng bước đi vào nề nếp. Công tác phối hợp thực hiện theo Quyết định 107/QĐ-CP của Thủ tướng Chính phủ giữa các lực lượng công an, quân sự và biên phòng được duy trì thường xuyên, từ huyện đến cơ sở.
Cùng với việc đẩy mạnh xây dựng, củng cố, phát triển quốc phòng – an ninh và an toàn xã hội, Ban Thường vụ còn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo công tác tư pháp theo Nghị quyết 49-NQ/TW, ngày 2-6-2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Đội ngũ cán bộ làm công tác tư pháp được củng cố và tăng cường đáp ứng yêu cầu ngày càng cao trong tình hình mới. Cơ sở vật chất cùng với trang thiết bị nghiệp vụ chuyên môn được đầu tư cơ bản đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ.
Hoạt động tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật được triển khai với nhiều hình thức phong phú. Mỗi khi có văn bản pháp luật mới, cơ quan tư pháp biên soạn tờ tin, tờ gấp và phối hợp với các cơ quan truyền thông tổ chức tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân, qua đó nâng cao nhận thức chấp hành pháp luật của nhân dân. Hoạt động trợ giúp pháp lý bước đầu đã phát huy tác dụng, nhất là đối với đối tượng chính sách, người có hoàn cảnh khó khăn.
Công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án dân sự, hình sự được đảm bảo chặt chẽ đúng theo quy định của pháp luật; tỷ lệ xét xử án hàng năm, đạt từ 85% trở lên. Công tác thi hành án dân sự đạt 95,44%; tỷ lệ án oan sai, án tồn đọng quá hạn theo luật định giảm dần.
Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân được kịp thời, đúng pháp luật, không có khiếu kiện đông người trở thành điểm nóng.
Cùng với việc tập trung lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng – an ninh, Ban Thường vụ Huyện ủy đặc biệt chú trọng đến công tác xây dựng chính quyền, mặt trận và các đoàn thể chính trị xã hội theo hướng nâng cao hiệu lực quản lý trong các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm đáp ứng ngày càng cao nhu cầu về vật chất và tinh thần của nhân dân. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện, nhiệm kỳ VI nêu rõ: “Tăng cường công tác Dân vận của Đảng và Chính quyền, nâng cao hiệu quả hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể”.
Trong thời kỳ này, Đảng bộ tập trung lãnh đạo nâng cao chất lượng hoạt động của công tác dận động quần chúng trong hệ thống chính trị. Tập trung kiện toàn tổ chức bộ máy, đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác dân vận, mặt trận và các đoàn thể.
Các đoàn thể và hội quần chúng đã tổ chức được nhiều phong trào như “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, “Nông dân thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi”, Phụ nữ tích cực học tập, lao động, sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc”... Các phong trào đã thu hút đông đảo các cơ quan, tổ chức tham gia và đạt nhiều kết quả tích cực. Thông qua phong trào, các đoàn viên, hội viên, hội quần chúng và nhân dân nắm được các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Từ đó, khơi dậy sức dân trong tham gia phát triển kinh tế-xã hội, làm giàu chính đáng, góp phần thực hiện có hiệu quả chương trình giảm nghèo của huyện.
Quan tâm lãnh đạo thực hiện tốt công tác dân tộc, tôn giáo và các chính sách dân tộc, tôn giáo luôn đảm bảo. Công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo được tăng cường; giải quyết kịp thời, đúng pháp luật các yêu cầu, lợi ích chính đáng của các tôn giáo; vận động các tín đồ tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước, sống “tốt đời, đẹp đạo”; tổ chức hoạt động theo khuôn khổ pháp luật quy định.
Hoạt động của hệ thống chính quyền các cấp: Nghị quyết Đại hội Đảng bộ chỉ rõ: “Nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của hội đồng nhân dân từ huyện đến cơ sở, trong đó những vấn đề quan trọng về kinh tế - xã hội của địa phương phải được Hội đồng nhân dân giám sát”.
Qua 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ VI, bộ máy chính quyền các cấp tiếp tục được củng cố kiện toàn, chất lượng, hiệu quả hoạt động được nâng lên.
Hội đồng nhân dân các cấp thực hiện khá tốt chức năng đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân. Hoạt động giám sát, chất lượng các kỳ họp hội đồng nhân dân tiếp tục được nâng lên; dân chủ trong sinh hoạt được phát huy. Quan tâm trả lời và giải quyết các kiến nghị chính đáng của cử tri. Triển khai thực hiện tốt Nghị quyết 26 của Quốc hội về thực hiện thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân cấp huyện, quận, phường. Tháng 4-2009, huyện đã hoàn thành công tác sắp xếp lại thành viên Ủy ban nhân dân huyện, nhiệm kỳ 2009-2011.
Hoạt động của Ủy ban nhân dân từ huyện đến cơ sở từng bước kiện toàn, sắp xếp, ổn định theo Nghị định 14/2008/NĐ-CP của Chính phủ; Nghị quyết 21/NQ-HĐND của Hội đồng nhân dân tỉnh và Kế hoạch số 19/KH-UBND của Ủy ban nhân dân tỉnh. Trong quản lý, điều hành, ủy ban nhân dân các cấp luôn bám sát chương trình, kế hoạch, nhiệm vụ trọng tâm; đồng thời tuân thủ kỷ luật, kỷ cương hành chính gắn với thực hiện quy chế dân chủ cơ sở. Tăng cường công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân được quan tâm chỉ đạo, qua đó kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc cho người dân.
Công tác cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa liên thông đã mang lại hiệu quả thiết thực, rút ngắn thời gian giải quyết hồ sơ cho người dân. Thông qua thực hiện cơ chế một cửa liên thông đội ngũ cán bộ công chức từng bước nâng lên về trình độ, năng lực, đổi mới, cải tiến một bước lề lối, tác phong làm việc trong giao tiếp, giải quyết công việc cho tổ chức, doanh nghiệp và công dân được kịp thời.
Công tác phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí được tập trung chỉ đạo gắn với cuộc vận động Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh được thực hiện ở tất cả các cơ quan, đơn vị của huyện bước đầu có chuyển biến tích cực. Trong 5 năm (2005 - 2010) huyện tiến hành tổ chức thanh tra, kiểm tra 18 cuộc, thu hồi nộp ngân sách Nhà nước, trả lại đơn vị và cá nhân với số tiền là 241.186.000 đồng; kiểm điểm rút kinh nghiệm 29 tập thể, 30 cá nhân và thi hành kỷ luật cảnh cáo 01 tập thể, 03 cá nhân, khiển trách 02 và cách chức 01 đồng chí.
Công tác xây dựng Đảng: Nghị quyết Đảng bộ lần thứ VI đã nêu rõ: “Đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng và đảng viên; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng về chính trị và tư tưởng, nhằm đảm bảo thống nhất ý chí và hành động; tập trung củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiếu đấu của tổ chức cơ sở đảng và đảng viên; nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác kiểm tra của cấp ủy và của Ủy ban Kiểm tra từ huyện đến cơ sở; đổi mới phương thức lãnh đạo của cấp ủy đảng, phát huy dân chủ trong Đảng, thắt chặt mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với dân”.
Ngay sau Đại hội Đảng bộ lần thứ VI, Ban Thường vụ Huyện ủy đã chỉ đạo các cấp ủy, chính quyền khẩn trương hoàn chỉnh quy chế làm việc, xây dựng chương trình hành động, kế hoạch cụ thể hóa nghị quyết trên tất cả các lĩnh vực.
Trong nhiệm kỳ VI (2005-2010), công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên được đổi mới và tập trung hơn. Các cấp ủy đã tập trung tổ chức triển khai, quán triệt tốt chủ trương, nghị quyết của cấp trên và cấp mình, phù hợp với tình hình thực tế của địa phương; tỷ lệ đảng viên tham gia tiếp thu nghị quyết hàng năm, đạt 96,2% trở lên. Tổ chức các đợt đi sinh hoạt ngày chính trị với nội dung, chất lượng sinh hoạt ngày càng được nâng lên và phong phú.
Nội dung, hình thức sinh hoạt của các tổ chức cơ sở Đảng luôn được đổi mới, thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; tự phê bình và phê bình trên tinh thần xây dựng khối đoàn kết trong Đảng bộ. Qua các đợt sinh hoạt, góp phần nâng cao nhận thức, bản lĩnh chính trị, trình độ, năng lực lãnh đạo của tổ chức Đảng; khả năng cụ thể hoá và tổ chức thực hiện chủ trương, nghị quyết của Đảng, pháp luật chính sách của Nhà nước được nâng lên. Từ đó, nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về chủ trương, đường lối của Đảng và niêm tin vào sự lãnh đạo của Đảng cũng được nâng lên.
Công tác tuyên truyền được quan tâm đổi mới phương thức, nhất là thông qua ngày sinh hoạt chính trị đã định hướng tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân những vấn đề thời sự liên quan đến tình hình trong tỉnh, trong nước và quốc tế. Công tác giáo dục lý luận chính trị, chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong Đảng bộ và xã hội được đẩy mạnh, góp phần ngăn chặn và đấu tranh với những quan điểm sai trái của các thế lực thù địch, bảo vệ Đảng, bảo vệ nền tưởng tư tưởng của Đảng. Đây là cơ sở chính trị quan trọng cho viện thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Qua hơn 3 năm thực hiện Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” trong hệ thống chính trị và trên địa bàn dân cư đã tạo được sự chuyển biến về nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Qua thực hiện cuộc vận động đã xuất hiện nhiều mô hình, cách làm hay của tập thể trong việc làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, như: Công an huyện mở sổ nhật ký công tác hàng ngày cho mỗi cán bộ chiến sĩ, đoàn viên, thanh niên viết nhật ký làm theo lời Bác. Tổ chức thi kể chuyện về tấm gương đạo đức của Bác, thi viết báo tường và triển lãm ảnh về Bác. Học tập và làm theo Bác; có 29 cơ quan, đơn vị thực hành tiết kiệm trong chi tiêu với số tiền 3,6 tỷ đồng và tăng thu nhập cho cán bộ, công chức.
Công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng theo tiêu chí trong sạch, vững mạnh, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên luôn được Ban Thường vụ Huyện ủy quan tâm lãnh đạo. Trong đó tập trung xây dựng, củng cố kiện toàn tổ chức cơ sở đảng theo từng loại hình, thể hiện được vai trò là hạt nhân lãnh đạo chính trị ở cơ sở; phát huy dân chủ trong sinh hoạt Đảng, tự phê bình, phê bình, tăng cường đoàn kết nội bộ, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ. Đánh giá phân loại tổ chức cơ sở đảng, đảng viên hàng năm đảm bảo chặt chẽ, đúng quy trình và hướng dẫn của cấp trên.
Trong nhiệm kỳ VI (2005 - 2010), huyện thành lập mới 7 tổ chức cơ sở đảng, nâng tổng số tổ chức cơ sở đảng của huyện lên 23 tổ chức; đến năm 2010, các ấp đều có chi bộ đảng. Công tác đánh giá phân loại tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh bình quân hàng năm đạt 80,16%. Thực hiện Chỉ thị 10-CT/TW của Ban Bí thư (khoá X) về “nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ”, tỷ lệ bình quân đảng viên tham gia sinh hoạt đạt 95%, qua đó góp phần nâng lên chất lượng sinh hoạt chi bộ cũng như nâng cao năng lực, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Công tác giáo dục, quản lý, phân công nhiệm vụ đảng viên được quan tâm chỉ đạo thực hiện; việc đánh giá, phân loại cán bộ, đảng viên ngày càng chặt chẽ, đảm bảo chất lượng, hàng năm có 98,76% đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ, đảng viên vi phạm tư cách, bị thi hành kỷ luật giảm dần.
Công tác phát triển đảng viên mới luôn được cấp ủy các cấp quan tâm thực hiện thường xuyên. Trong 5 năm (2005 - 2010), toàn huyện kết nạp mới 249 đảng viên, vượt 55,62%, tăng 115 đảng viên so với đầu nhiệm kỳ, nâng tổng số đảng viên của Đảng bộ đến năm 2010 là 465 đảng viên, chiếm 2,18% dân số.
Công tác quy hoạch, đào tạo bồi dưỡng cán bộ được tăng cường, có nhiều chuyển biến tích cực. Trong 5 năm (2005 - 2010), huyện đã cử 185 lượt cán bộ đi đào tạo từ trung cấp trở lên(12). Việc phân công, bố trí, sử dụng cán bộ cơ bản đúng theo quy hoạch; đã đề bạt bổ nhiệm, điều động, luân chuyển 32 đồng chí. Nhìn chung đội ngũ cán bộ sau khi được đào tạo và luân chuyển đều phát huy hiệu quả, nhiều cán bộ trẻ trưởng thành từ thực tiễn. Công tác bảo vệ chính trị nội bộ được chú trọng, phục vụ tốt yêu cầu công tác quy hoạch, đề bạt, bố trí cán bộ và kết nạp đảng viên.
Công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật Đảng luôn được cấp ủy chỉ đạo, thực hiện thường xuyên, góp phần ngăn ngừa, chấn chỉnh kịp thời các tổ chức đảng và đảng viên sai phạm. Từ năm 2005 đến 2010, ủy ban kiểm tra các cấp đã kiểm tra 181 cuộc với 349 lượt tổ chức cơ sở đảng và 89 đảng viên(13). Qua kiểm tra, giám sát đã phát hiện và xử lý kỷ luật 01 tổ chức cơ sở đảng và 24 đảng viên.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả nổi bật đạt được, trong những năm 2005 - 2010, Kiên Hải còn một số hạn chế, yếu kém.
Tăng trưởng kinh tế khá cao nhưng thiếu tính bền vững, chuyển dịch cơ cấu còn chậm, chưa đồng bộ. Khai thác tài nguyên thiên nhiên là chủ yếu, chưa quan tâm nhiều đến phát triển nuôi trồng và chú trọng bảo vệ ngư trường. Thương mại - dịch vụ - du lịch phát triển chậm, thiếu mô hình hay để nhân rộng. Việc đi lại còn khó khăn, hàng hóa lưu thông chi phí cao, sức cạnh tranh thấp. Mức hưởng thụ của nhân dân về y tế, giáo dục, an sinh xã hội còn thấp. Sự chênh lệch giàu nghèo còn lớn. Trật tự an toàn xã hội từng lúc, từng nơi còn diễn biến phức tạp. Hệ thống chính trị có mặt chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Hiệu lực, hiệu quả quản lý của chính quyền và hoạt động của Mặt trận, các đoàn thể từ huyện đến cơ sở còn hạn chế. Chất lượng cán bộ, tổ chức cơ sở đảng nâng lên còn chậm. Thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” chưa tạo được chuyển biến nhiều trong hành động.
Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém trên là do cấp ủy, chính quyền các cấp chưa tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, cũng như chưa bám sát những nhiệm vụ trọng tâm; năng lực tổ chức thực hiện và quản lý, điều hành của các cấp, các ngành còn có mặt hạn chế; một số ít cán bộ chủ chốt ở một số ngành và cơ sở chưa năng động, sáng tạo; tinh thần trách nhiệm, sự quyết tâm chưa cao.
Từ thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ VI, Đảng bộ huyện rút ra bốn bài học kinh nghiệm
Một là, cần xác định phát triển và nâng cao nguồn nhân lực vừa là nhiệm vụ trước mắt vừa là nhiệm vụ cơ bản lâu dài. Xem đây là yếu tố cơ bản nhất để góp phần quan trọng thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển nhanh và vững chắc ở địa phương.
Hai là, xác định việc xây dựng kết cấu hạ tầng là khâu đột phá để phát triển kinh tế - xã hội của huyện.
Ba là, thường xuyên quan tâm công tác xây dựng Đảng, nhất là thực hiện tốt công tác tổ chức cán bộ. Xem đây là khâu then chốt, là nhân tố quyết định thực hiện thắng lợi nghị quyết đại hội.
Bốn là, phải luôn luôn quan tâm xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở trong sạch vững mạnh, nhất là ở ấp. Xem đây là nơi quan hệ trực tiếp với nhân dân trong thực hiện các nhiệm vụ cụ thể về phát triển kinh tế, văn hóa-xã hội ở địa phương; đồng thời cũng là nơi giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên, xây dựng phát triển tổ chức đảng.
2. Kiên Hải trong thời kỳ 2010 - 2015
Từ ngày ngày 9 đến ngày 11-8-2010, huyện Kiên Hải đã tiến hành Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ VII, nhiệm kỳ 2010-2015. Có 110 đại biểu thay mặt cho 23 chi, đảng bộ cơ sở và 493 đảng viên trong huyện tham dự.
Đánh giá tình hình của huyện sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ VI, Đại hội ghi nhận những thành tựu nổi bật trong 5 năm (2005 - 2010):
Tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao; chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng hướng, tiềm lực ngày càng cao. Tập trung khai thác và phát huy các tiềm năng lợi thế của huyện. Tranh thủ được nhiều nguồn lực đầu tư, phát triển; hoàn thiện kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội, nhất là các công trình dự án lớn như: đường quanh đảo và bến cặp tàu Hòn Tre, Lại Sơn, khu neo đậu tránh trú bão cho tàu cá và khu lấn biển Hòn Tre đã tạo động lực cho bước phát triển mới. Văn hoá-xã hội đạt được kết quả tiến bộ trên nhiều mặt, nhất là chăm lo cho gia đình chính sách, giảm nghèo, đào tạo nghề, giải quyết việc làm, nâng cao đời sống nhân dân. Quốc phòng - an ninh và trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Hệ thống chính trị tiếp tục được củng cố, kiện toàn. Phát triển đảng viên, đào tạo đội ngũ cán bộ luôn được cấp ủy quan tâm chỉ đạo; chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên được nâng lên.
Đại hội VII nhất trí khẳng định: Đạt được những thành tích tiến bộ là do: Cấp ủy xác định được trọng tâm, trọng điểm, tiềm năng lợi thế của huyện, vận dụng cụ thể hóa và chỉ đạo thực hiện có kết quả các chủ trương chính sách của Trung ương và của tỉnh. Năng lực lãnh đạo, quản lý điều hành có sự đổi mới, bám sát chương trình kế hoạch, sâu sát cơ sở, kịp thời uốn nắn, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc đối với một số ngành, lĩnh vực quan trọng. Sự nỗ lực phấn đấu của các cấp, các ngành và sự đóng góp của nhân dân trong huyện. Ban Chấp hành, Ban Thường vụ Huyện ủy chủ động tranh thủ các nguồn lực của Trung ương và địa phương để tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng của huyện.
Với chủ đề: “tiếp tục tập trung xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, toàn diện; phát huy dân chủ và sức mạnh toàn dân; khai thác tốt tiềm năng, lợi thế đưa Kiên Hải phát triển nhanh và bền vững”. Trên cơ sở kết quả đạt được của nhiệm kỳ VI (2005 - 2010), Đại hội đại biểu Đảng bộ lần thứ VII, nhiệm kỳ (2010 - 2015) đề ra nhiệm vụ, mục tiêu cao hơn để toàn Đảng bộ, quân và dân Kiên Hải phấn đấu nhằm đưa huyện nhà phát triển nhanh, bền vững, đó là:
Đảng bộ Kiên Hải phấn đấu trong 5 năm (2010-2015) tốc độ tăng trưởng kinh tế bền vững; huy động mọi nguồn lực đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; khai thác tốt tiềm năng, thế mạnh của huyện; cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng nông - lâm - thủy sản, thương mại - dịch vụ - du lịch, công nghiệp - xây dựng; tập trung phát triển khai thác và nuôi trồng thủy sản, chú trọng giảm chi phí trong sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm. Chăm lo tốt đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân; nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, nguồn nhân lực, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, giải quyết việc làm, giảm hộ nghèo. Đảm bảo ổn định chính trị và quốc phòng - an ninh vững chắc, nhất là tranh chấp trên vùng biển. Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ huyện; phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc; nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể; tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý điều hành của chính quyền các cấp.
Phấn đấu đến năm 2015, tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm của huyện đạt 14% trở lên, GDP bình quân đầu người đạt 2.481 USD (theo giá cố định 1994) và 2.779 USD (theo giá thực tế); tăng trưởng GDP bình quân hàng năm từng khu vực: nông - lâm - thủy sản là từ 12,72% trở lên; thương mại - dịch vụ - du lịch là từ 14,57% trở lên; công nghiệp - xây dựng là từ 16,22% trở lên. Cơ cấu kinh tế đến năm 2015 tỷ trọng nông - lâm - thủy sản chiếm 40,89%; thương mại - dịch vụ - du lịch chiếm 33,29%; công nghiệp - xây dựng chiếm 25,82%. Sản lượng khai thác hải sản đến năm 2015 đạt trên 60 ngàn tấn các loại; nuôi trồng đạt 600 tấn. Thu ngân sách đến năm 2015 đạt 4,676 tỷ đồng; chi ngân sách trên 69 tỷ đồng. 100% trung tâm xã có đường được bê tông hoá và các hẻm trong khu dân cư được tráng xi măng; 99% số hộ sử dụng điện; trên 95% số hộ sử dụng nước hợp vệ sinh và nước sạch; xã Lại Sơn và xã An Sơn đạt xã nông thôn mới, các xã còn lại đạt 70% theo các tiêu chí của xã nông thôn mới.
Hàng năm, giải quyết việc làm cho 400 lao động, trong đó tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt trên 30%; tỷ lệ hộ nghèo giảm còn dưới 1%; xã Hòn Tre không còn hộ nghèo. Tỷ lệ huy động trẻ từ 6 - 14 tuổi đến trường đạt trên 95%; 70% trẻ em được học mẫu giáo, hầu hết trẻ em 5 tuổi được học chương trình trước khi bước vào lớp 1. 01 xã đạt chuẩn văn hoá và 01 xã có phong trào văn hóa tốt. 100% trạm y tế các xã đạt chuẩn quốc gia; giảm tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng dưới 5 tuổi xuống còn dưới 12%, giảm tỷ lệ tăng dân số tự nhiên xuống còn 1,25%; có 70% hộ gia đình tham gia bảo hiểm y tế tự nguyện.
Hàng năm, trên 85% tổ chức cơ sở đảng đạt trong sạch, vững mạnh; 90% đảng viên đủ tư cách hoàn thành tốt nhiệm vụ; kết nạp mới 250 đảng viên, tỷ lệ đảng viên so với dân số chiếm 2,60%; 85% các cơ sở hội và chi, tổ hội đạt khá, vững mạnh và xuất sắc; 70% quần chúng tham vào các tổ chức đoàn thể chính trị.
Để thực hiện đạt các chỉ tiêu trên, Đại hội nêu 4 giải pháp:
- Tăng cường huy động tốt các nguồn lực cho đầu tư phát triển và xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội.
- Tập trung phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
- Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của chính quyền các cấp.
- Nâng cao năng lực lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện của các cấp, các ngành.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khóa VII, nhiệm kỳ 2010-2015 gồm 34 đồng chí14. Ban Thường vụ gồm 11 đồng chí, đồng chí Ong Văn Ngay được bầu làm Bí thư Huyện ủy.
Từ ngày 22 đến ngày 24-9-2010, diễn ra Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ IX. Có 350 đại biểu thay mặt cho hơn 33.000 đảng viên trong tỉnh tham dự. Đồng chí Nguyễn Sinh Hùng, Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng về dự và chỉ đạo Đại hội.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa IX, nhiệm kỳ 2010 - 2015 gồm 55 đồng chí. Ban Thường vụ gồm 15 đồng chí, đồng chí Bùi Quang Bền được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy.(15)
Thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ VII của huyện, Kiên Hải có thuận lợi là thành tựu của 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VI Đảng bộ huyện đã tạo tiền đề quan trọng cho sự phát triển những năm tiếp theo; là huyện có tiềm năng về kinh tế biển.
Tuy nhiên, Kiên Hải là huyện đảo cách xa đất liền, địa hình chia cắt, giao thông đi lại khó khăn; tình trạng biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, thiên tai, dịch bệnh... luôn diễn biến phức tạp. Kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội của huyện phát triển chưa đồng bộ. Mặt bằng dân trí không đồng đều; đội ngũ cán bộ các cấp có mặt chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Giá cả các mặt hàng tiêu dùng thiếu ổn định, đời sống của một bộ phận nhân dân còn khó khăn. Bên cạnh đó, các thế lực thù địch luôn tăng cường chống phá trên các lĩnh vực dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo.
Sau khi Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ VII kết thúc, ngày 12-7-2011, Ban Thường vụ Huyện ủy xây dựng Chương trình hành động số 09-CTr/HU nhằm thực hiện Nghị quyết Đại hội IX Đảng bộ tỉnh và Nghị quyết Đại hội VII Đảng bộ huyện. Đồng thời phân công các đồng chí Ủy viên Ban Thường vụ và Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân huyện theo dõi, chỉ đạo xây dựng 15 công trình, dự án trọng điểm theo Nghị quyết Đại hội VII Đảng bộ huyện. Hàng năm, Ban Thường vụ Huyện ủy đều xây dựng Nghị quyết về phương hướng, nhiệm vụ để lãnh đạo phát triển toàn diện huyện.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ VII, ngay từ đầu năm 2011 Huyện ủy đã chỉ đạo các cấp, các ngành phát triển kinh tế theo hướng tập trung khai thác, phát huy hiệu quả các tiềm năng thế mạnh, thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh, bền vững. Đẩy mạnh đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, tạo bước đột phá thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh; khuyến khích và tạo môi trường thuận lợi phát triển cho các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp; phát triển và nâng cao hiệu quả khoa học công nghệ; phát triển du lịch và các ngành dịch vụ; huy động tốt các nguồn thu vào ngân sách nhà nước, quản lý tốt công tác chi ngân sách, đảm bảo thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.
Năm 2011, năm đầu triển khai thực hiện nghị quyết đại hội các cấp, nhiệm kỳ 2010 - 2015, đặc biệt là thực hiện nghị quyết về phương hướng, nhiệm vụ năm 2011 của huyện trong bối cảnh tình hình đất nước lạm phát tăng cao. Nhưng với sự nỗ lực và quyết tâm của cả hệ thống chính trị và sự đồng thuận của nhân dân, năm 2011, hầu hết các chỉ tiêu về phát triển kinh tế - xã hội và quốc phòng - an ninh của huyện đều đạt và vượt kế hoạch đề ra.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 14,95%, trong đó nông lâm - thủy sản tăng 14,54%, công nghiệp - xây dựng tăng 14,80%, thương mại - dịch vụ tăng 15,67%. GDP bình quân đầu người đạt 38,241 triệu đồng/người/năm, tương đương 1.817 USD. Cơ cấu kinh tế trong lĩnh vực nông - lâm - thủy sản chiếm 50,11%; công nghiệp - xây dựng chiếm 20,58%; thương mại dịch vụ chiếm 29,31%.
Ngư dân Kiên Hải chịu khó, tiếp tục bám biển khai thác hải sản được 60.191 tấn; giá trị sản xuất đạt 1.661 tỷ 592 triệu đồng, tăng 42,09% so với năm 2010. Đặc biệt, nuôi trồng thủy sản phát triển khá nhanh, năm 2011, toàn huyện có 195 hộ nuôi với 587 lồng bè, tăng 210 lồng so với năm 2010, sản lượng đạt 328 tấn, tăng 55,45% so với năm 2010.
Công nghiệp - xây dựng có mức tăng trưởng khá, giá trị sản xuất đạt 606 tỷ 607 triệu đồng, tăng 36,99% so với cùng kỳ 2010. 13/13 ấp có mạng lưới điện, tỷ lệ hộ sử dụng điện đạt 99% số hộ. Tuy nhiên, các xã An Sơn, Lại Sơn, Nam Du còn khó khăn về điện, chỉ có điện sử dụng từ 8 - 10 giờ/ngày. Số hộ sử dụng nước sạch hợp vệ sinh đạt 87%.
Năm 2011, huyện đưa vào sử dụng các công trình đường quanh đảo xã Lại Sơn, trung tâm hành chính xã Nam Du, bến cập tàu Hòn Tre.
Thương nghiệp - dịch vụ duy trì ổn định, tính đến năm 2011, toàn huyện Kiên Hải có khoảng 900 cơ sở kinh doanh thương mại, dịch vụ, cơ bản đáp ứng tốt nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của nhân dân; giá trị sản xuất đạt 411 tỷ 787 triệu đồng, tăng 39,15% so với 2010.
Năm 2011, ngành giao thông - bưu điện vận chuyển được 780 ngàn lượt hành khách và 94,95 ngàn tấn hàng hoá, tăng 11,70% so với năm 2010. Toàn huyện có 6.101 thuê bao điện thoại, trong đó có 2.099 máy cố định, 511 máy được kết nối mạng Internet. Mạng lưới thông tin liên lạc luôn thông suốt, đảm bảo yêu cầu nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh của địa phương.
Năm 2011, thu ngân sách được 3 tỷ 328 triệu đồng, đạt 118% kế hoạch. Tổng chi ngân sách 71 tỷ 538 triệu đồng, đạt 109,51% kế hoạch, tăng 5,43% so với cùng kỳ năm 2010.
Tuy nhiên, một số chỉ tiêu phát triển kinh tế của huyện, nhất là tiến độ triển khai thực hiện các chương trình, dự án trọng điểm còn chậm; giá cả hàng hoá thiếu ổn định làm cho tình hình sản xuất, kinh doanh gặp nhiều khó khăn.
Trước tình hình đó, ngày 30-01-2012, Ban Thường vụ Huyện ủy ban hành Nghị quyết số 02-NQ/HU về phương hướng, nhiệm vụ năm 2012. Tập trung thực hiện các giải pháp kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội; phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt trên 14%; thu nhập bình quân đầu người đạt 45 triệu đồng. Giải pháp để thực hiện nhiệm vụ là tiếp tục khuyến khích đầu tư khai thác, nuôi trồng thủy sản; tập trung đầu tư, thu hút mạnh các nguồn vốn cho phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng kết cấu hạ tầng.
Những năm 2012-2013, các giải pháp kềm chế lạm phát ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội được Đảng bộ tập trung triển khai bước đầu mang lại hiệu quả. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của huyện năm 2013, đạt 10,52%, trong đó nông - lâm - thủy sản tăng 12,85%; công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp tăng 12,05%; xây dựng tăng 15,97%; thương mại - dịch vụ tăng 15,14%; GDP bình quân đầu người đạt 55.270 triệu đồng (tương đương với 2.627 USD).
Đến năm 2013, toàn huyện có 1.398 phương tiện khai thác hải sản và dịch vụ hậu cần nghề cá. Sản lượng khai thác được 62.020 tấn cá các loại; giá trị sản xuất ước đạt 1.740 tỷ đồng. Lúc này, toàn huyện có 209 hộ nuôi với 714 lồng bè; sản lượng nuôi trồng được 515,09 tấn hải sản các loại; giá trị sản xuất đạt 107,390 tỷ đồng.
Lĩnh vực nông - lâm nghiệp, giá trị sản xuất nông nghiệp ước đạt 20,01 tỷ đồng; giá trị sản xuất lâm nghiệp ước đạt 3,03 tỷ đồng.
Công nghiệp - xây dựng, ước giá trị sản xuất công nghiệp đạt 382,24 tỷ đồng. Sản xuất điện cơ bản đáp ứng được nhu cầu sử dụng của nhân dân, tỷ lệ hộ sử dụng điện đạt 99% dân số. Số hộ sử dụng nước sạch hợp vệ sinh đạt 85%.
Năm 2013, triển khai xây dựng các công trình đường ngang, quanh đảo, bến cập tàu An Sơn, trụ sở làm việc Ủy ban nhân dân xã Hòn Tre, sửa chữa trụ sở làm việc và nhà công vụ Huyện ủy; đường giao thông nông thôn các xã Lại Sơn - An Sơn - Nam Du, Trường Tiểu học và Trung học cơ sở Nam Du...
Các hoạt động thương mại - dịch vụ, ước tính tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ đạt 1.174 tỷ đồng, đạt 106,03% kế hoạch, tăng 33,23% so với năm 2012.
Giao thông vận tải cơ bản đáp ứng nhu cầu đi lại và vận chuyển hàng hoá của nhân dân. Năm 2013, ước vận chuyển được 422,5 ngàn lượt hành khách (chỉ tính đường biển) và 105,2 ngàn tấn hàng hóa, đều tăng so với năm 2012.
Tài chính - tín dụng, thu ngân sách được 9,150 tỷ đồng, tăng 183% so với năm 2012, đạt 286% kế hoạch, đạt 300% chỉ tiêu tỉnh giao (trong đó thu tiền sử dụng đất là 2,856 tỷ đồng). Chi ngân sách ước cả năm đạt 124,548 tỷ đồng, tăng 14% so với năm 2012, đạt 142,44% kế hoạch, đạt 155,37% chỉ tiêu tỉnh giao. Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện huy động vốn được 52 tỷ đồng, cho vay 112 tỷ đồng, thu nợ 84 tỷ đồng, tổng dư nợ 166 tỷ đồng. Ngân hàng Chính sách xã hội huyện cho vay 4,612 tỷ đồng, thu nợ 2,220 tỷ đồng, dư nợ cuối kỳ 42,481 tỷ đồng.
Tuy nhiên, còn một số chỉ tiêu, chương trình, dự án thực hiện chưa đạt yêu cầu tốc độ tăng trưởng kinh tế chỉ đạt 10,52% (theo giá so sánh năm 1994) so với kế hoạch là đạt 14% trở lên; trong khai thác hải sản gặp nhiều khó khăn và bất lợi, ngư trường cạn kiệt, các phương tiện của ngư dân từ nơi khác đến hoạt động khai thác các nghề cấm còn diễn biến phức tạp(16), tranh chấp ngư trường còn xảy ra; giá cả sản phẩm thiếu ổn định làm ảnh hưởng đến sản xuất, kinh doanh và đời sống của nhân dân.
Như vậy, sau 3 năm thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế theo Nghị quyết Đại hội lần thứ VII, vẫn còn một số chỉ tiêu, chương trình, dự án thực hiện chưa đạt yêu cầu.
Ngày 12-4-2013, huyện Kiên Hải long trọng tổ chức lễ kỷ niệm 30 năm ngày thành lập huyện (12/4/1983 - 12/4/2013). Tại buổi kỷ niệm, Huyện ủy đã tổng kết thành tựu 30 năm xây dựng và phát triển của huyện.
Sau 30 năm, số lượng phương tiện đánh bắt hải sản của huyện tăng vọt từ 330 phương tiện với tổng công suất 3.730CV vào năm 1983 lên 1.781 phương tiện với 123.955CV vào năm 2012; tổng sản lượng khai thác hải sản từ 8.200 tấn các loại tăng lên 61.424 tấn. Nuôi trồng thủy sản những năm đầu mới thành lập huyện chưa được chú trọng, đến năm 2012, toàn huyện đã có 214 hộ nuôi với 708 lồng bè, sản lượng đạt trên 450 tấn hải sản các loại.
Tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm của huyện, giai đoạn 1991 - 1995 là 7,98% và 2006 - 2010 là 14,06%. Thu nhập bình quân đầu người từ 3,6 triệu đồng năm 1984, tăng lên trên 44 triệu đồng/người/năm vào năm 2012; tỷ lệ hộ nghèo từ 19,96% năm 1993 giảm còn 0,74% vào năm 2012.
Kết cấu hạ tầng của huyện khi mới thành lập hầu như không có gì, rất khó khăn. Người dân đi lại giữa các đảo với đất liền chủ yếu bằng tàu đánh cá, tàu hàng và phải mất nhiều thời gian chờ đợi. Điện, đường, trường, trạm rất thiếu thốn; trụ sở các cơ quan và nhà cửa của nhân dân hầu hết đều cất bằng cây lá tạm bợ. Nhưng sau 30 năm với sự nỗ lực của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân, cơ sở hạ tầng của huyện Kiên Hải có sự phát triển vượt bậc. Là huyện được công nhận không còn nhà xiêu vẹo. Xã Hòn Tre và xã Nam Du đã có đường bê tông quanh đảo, người dân đi lại rất thuận tiện trong cả 2 mùa mưa, nắng. Bến cặp tàu Hòn Tre và Lại Sơn được xây dựng kiên cố, đưa vào sử dụng, giúp cho việc vận chuyển hành khách và hàng hóa của người dân được dễ dàng hơn. Người dân đi lại giữa các đảo và đất liền trên 10 phương tiện vận tải hành khách và 35 phương tiện vận tải hàng hóa riêng biệt (17). Tất cả các xã đều có nhà máy phát điện, trong đó xã Hòn Tre có điện sử dụng 24/24 giờ, các xã Lại Sơn, An Sơn và Nam Du có điện sử dụng từ 10 - 12 giờ/ngày, góp phần nâng số hộ sử dụng điện của huyện đạt trên 98%. Các xã Hòn Tre, Lại Sơn và Nam Du đều có trạm cung cấp nước sinh hoạt cho nhân dân. 100% trường học trên địa bàn huyện đều được xây dựng kiên cố và bán kiên cố. Mạng lưới y tế của huyện được nâng cấp với 02 phòng khám đạt chuẩn khu vực và 02 trạm y tế xã được xây dựng kiên cố.
Mạng lưới bưu chính - viễn thông khi mới thành lập huyện chỉ có 30 máy điện thoại, đến năm 2012, toàn huyện có 7.260 máy điện thoại, trong đó số điện thoại di động khoảng 4.350 máy và nối mạng Internet được 510 máy đến các ấp.
Hoạt động giáo dục và chăm sóc sức khỏe cho nhân dân được huyện quan tâm đầu tư cả vật chất và con người. Nếu như vào những năm huyện mới thành lập, trường học chủ yếu bằng cây lá tạm bợ thì 30 năm sau huyện Kiên Hải đã có 10 trường với 102 phòng học được xây dựng kiên cố, 202 giáo viên và đều đạt chuẩn; huyện được công nhận đạt chuẩn quốc gia về công tác phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi vào năm 2006.
Nếu như năm 1983, toàn huyện chỉ có 4 bác sĩ thì đến năm 2012, bình quân có 4,64 bác sỹ/vạn dân, có 27,83 giường bệnh/vạn dân; hàng năm khám và điều trị bệnh cho nhân dân khoảng 40.000 lượt người; tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng từ 20% năm 2002 giảm còn 12,95% vào năm 2012; tỷ lệ tăng dân số tự nhiên năm 2000 chiếm 1,86%, đến năm 2012 giảm còn 1,24%.
Hệ thống chính trị từng bước được xây dựng, củng cố ngày càng vững mạnh. Khi mới thành lập, toàn huyện chỉ có 39 đảng viên sinh hoạt tại 10 chi bộ; trình độ của đội ngũ cán bộ, đảng viên chưa tốt nghiệp cấp 2 và cấp 3, chiếm 70%. Đến năm 2012, toàn Đảng bộ có 587 đảng viên với 25 tổ chức cơ sở đảng(18); đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn: thạc sĩ là 02, đại học là 61, cao đẳng là 04, trung cấp là 14; trình độ lý luận chính trị: cao cấp là 67, trung cấp là 89.
Ngày 12-02-2014, Ban Thường vụ Huyện ủy ban hành Nghị quyết số 06-NQ/HU về phương hướng, nhiệm vụ 2014. Tiến hành rà soát lại các chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội VII Đảng bộ huyện đề ra. Với quan điểm những chỉ tiêu đạt và vượt nghị quyết thì tiếp tục phấn đấu đạt ở mức cao hơn để bù đắp cho các lĩnh vực đạt thấp và còn khó khăn; các chỉ tiêu có khả năng thì phấn đấu đạt, quyết tâm thực hiện; các chỉ tiêu đạt thấp, khó hoàn thành nghị quyết thì phấn đấu đạt ở mức cao nhất. Phấn đấu trong năm 2014, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 10,52% trở lên, GDP bình quân đầu người 2.627 USD (giá hiện hành); sản lượng khai thác đạt 63.000 tấn, nuôi trồng thủy sản đạt 550 tấn. Để đạt mục tiêu trên, Ban Thường vụ nêu giải pháp: Tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc thúc đẩy phát triển sản xuất, kinh doanh, nhất là các lĩnh vực có tiềm năng, lợi thế.
Nhờ sự chỉ đạo quyết liệt của Ban Thường vụ Huyện ủy và thực hiện đồng bộ các giải pháp. Năm 2014, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 14,01%; sản lượng khai thác được 63.745 tấn hải sản các loại, nuôi trồng ước đạt 420 tấn; GDP bình quân đầu người 59,3 triệu đồng (tương đương 2.795 USD theo giá hiện hành).
Các công trình trọng điểm như: Dự án kéo điện lưới quốc gia từ Hòn Đất ra Hòn Tre, đường quanh đảo xã An Sơn, các thủ tục dự án đầu tư đường quanh đảo xã Nam Du, dự án Bãi xử lý rác và nghĩa trang nhân dân xã Hòn Tre,... tiếp tục được triển khai thực hiện, khối lượng hoàn thành các công trình đạt 154,409 tỷ đồng, đạt 153,83% kế hoạch.
Lúc này, toàn huyện có trên 800 cơ sở kinh doanh lớn, nhỏ mỗi năm tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ đạt 1.227 tỷ đồng.
Tài chính - tín dụng, thu ngân sách ước cả năm được 7,266 tỷ đồng, đạt 210,61% kế hoạch. Chi ngân sách ước cả năm được 142,312 tỷ đồng, đạt 159,63% kế hoạch. Các chi nhánh ngân hàng trên địa bàn đã giải ngân cho vay khoảng 148,55 tỷ đồng, tổng dư nợ đạt 215,1 tỷ đồng.
Về xây dựng nông thôn mới, tính đến cuối năm 2014, xã Hòn Tre đạt 13/19 tiêu chí; xã Lại Sơn đạt 11/19 tiêu chí; xã An Sơn đạt 10/19 tiêu chí và xã Nam Du đạt 11/19 tiêu chí.
Tuy nhiên, một số chỉ tiêu, lĩnh vực phát triển chậm, trong đó nuôi trồng thủy sản chỉ đạt 76,36% kế hoạch. Việc huy động các nguồn lực đầu tư xây dựng nông thôn mới còn gặp nhiều khó khăn và thực hiện chậm.
Năm 2015, năm cuối của nhiệm kỳ VII, huyện phấn đấu quyết liệt hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ của Nghị quyết Đại hội VII Đảng bộ huyện đã đề ra. Nghị quyết số 07, ngày 14-12-2014 của Ban Thường vụ nêu: năm 2015, quyết tâm phấn đấu thực hiện đạt các chỉ tiêu: Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 14,35%, tăng dần tỷ trọng công nghiệp - xây dựng, thương mại - dịch vụ; GDP bình quân đầu người 71 triệu đồng (tương đương 3.321 USD), sản lượng khai thác hải sản trên 65.000 tấn, nuôi trồng thủy sản đạt 600 tấn; tổng huy động vốn đầu tư toàn xã hội 458,5 tỷ đồng; tổng thu ngân sách đạt 5 tỷ đồng, tổng chi ngân sách 107,270 tỷ đồng; về xây dựng nông thôn mới giữ vững các tiêu chí đã đạt, mỗi xã đạt thêm từ 02 tiêu chí trở lên; tỷ lệ bê tông hóa các tuyến lộ giao thông nông thôn đạt 90%. Giải pháp để thực hiện là: Tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc thúc đẩy phát triển sản xuất, kinh doanh, nhất là các lĩnh vực có tiềm năng, lợi thế; thực hiện đồng bộ các giải pháp để đẩy mạnh phát triển sản xuất và các ngành dịch vụ, nhất là lĩnh vực khai thác, nuôi trồng thủy sản và chế biến; đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ trong GDP.
Từ những kết quả trên, Huyện ủy rà soát lại các nhiệm vụ, chỉ tiêu trong 5 năm (2010 - 2015) và nhận thấy các chỉ tiêu về phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng – an ninh, xây dựng Đảng theo Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ VII đề ra đều cơ bản hoàn thành.
Nông - lâm - thuỷ sản của Kiên Hải tăng trưởng vượt bật, từ 7,63%/năm, giai đoạn 2005 - 2010 lên 13,12% giai đoạn 2010 - 2015 và giữ vai trò quyết định tốc độ tăng trưởng kinh tế của huyện. GDP bình quân đầu người đạt tương đương 2.679 USD vượt chỉ tiêu Nghị quyết (NQ 2.481 USD). Cơ cấu kinh tế có những bước chuyển dịch đúng hướng, trong đó tỷ trọng nông - lâm - thủy sản chiếm 42,52%, thương mại - dịch vụ chiếm 34,69%, công nghiệp - xây dựng chiếm 22,79% (NQ: 40,89% - 33,29% - 25,82%). Đến năm 2015, toàn huyện Kiên Hải có 1.487 phương tiện khai thác hải sản với 127.000 CV; tổng sản lượng khai thác đạt 312,38 ngàn tấn, bình quân hàng năm tăng 2%; nuôi trồng thủy sản phát triển mạnh, toàn huyện có 215 hộ nuôi với 841 lồng bè, tăng gấp 10 lần so với nhiệm kỳ 2005 - 2010; tổng sản lượng nuôi trồng đạt 2,313 ngàn tấn, tăng bình quân hàng năm 23,25%, gấp 4,02 lần so với nhiệm kỳ 2005-2010.
Ngay sau Đại hội Đảng bộ lần thứ VII kết thúc, Ban Chấp hành đã bắt tay triển khai thực hiện một số chương trình trọng điểm nhằm đảm bảo cho nền kinh tế của huyện phát triển thông suốt. Nếu như giai đoạn (2005 - 2010), huyện chỉ bố trí gần 400 tỷ đồng triển khai xây dựng đường quanh đảo Hòn Tre, bệnh viện huyện, trạm y tế, trường học, trụ sở làm việc, nhà công vụ các xã, lộ giao thông nông thôn…, thì đến giai đoạn 2010 - 2015, Ban Thường vụ Huyện ủy quyết liệt hơn trong việc chỉ đạo chính quyền đẩy mạnh huy động các nguồn vốn đầu tư phát triển và xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội với tổng vốn đầu tư 1.494 tỷ đồng, tăng bình quân hàng năm 29,66%. Nhờ đó, đường quanh đảo, ngang đảo và bến cặp tàu xã Lại Sơn và An Sơn; khu neo đậu tránh trú bão xã Hòn Tre tiếp tục được triển khai thực hiện. Đặc biệt là công trình kéo điện lưới quốc gia từ đất liền vượt biển ra đảo Hòn Tre hoàn thành và đưa vào sử dụng, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội Kiên Hải phát triển nhanh chóng; là niềm mơ ước bao đời của nhân dân huyện đảo(19).
Việc hoàn thành công trình kéo điện lưới quốc gia đến đảo, nhân dân được sử dụng điện lưới quốc gia cùng nhiều công trình quan trọng được huyện triển khai đã tạo chuyển biến mạnh mẽ đời sống xã hội, làm thay đổi diện mạo cả thành thị và nông thôn ở huyện đảo Kiên Hải, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng nâng tỷ trọng thương mại, dịch vụ và du lịch. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ đạt 3.645 tỷ đồng, tăng bình quân hàng năm 23,71%, gấp 3,8 lần so với nhiệm kỳ VI (2005-2010).
Giao thông - Bưu chính - Viễn thông, đến năm 2010 toàn huyện có 278 phương tiện (tăng 28 phương tiện so với đầu nhiệm kỳ), cơ bản đã đáp ứng nhu cầu đi lại của người dân. Mạng lưới thông tin liên lạc luôn được thông suốt, đảm bảo nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh của địa phương.
Nếu như năm 2010, toàn huyện có 7.000 máy điện thoại đạt 205,58% chỉ tiêu Nghị quyết, bằng 3,38 lần so với đầu nhiệm kỳ, bình quân 32,47 máy/100 dân và có 372 máy được kết nối mạng Internet; mạng điện thoại di động được phủ sóng trên khắp địa bàn huyện thì đến năm 2015 toàn huyện có 11.069 máy điện thoại, đạt 122,50% chỉ tiêu, bình quân 55 máy/100 dân, tăng 22,53 máy so với nhiệm 2005 - 2010, có 603 máy vi tính được kết nối mạng Internet, tăng trên 300 máy vi tính so với nhiệm kỳ 2005 - 2010.
Tài chính ngân sách: Giai đoạn 2010 - 2015, tổng thu ngân sách của huyện đạt 29,454 tỷ đồng, tăng bình quân hàng năm 8,82%, gấp 2,46 lần so với nhiệm kỳ 2005 - 2010. Công tác thu, chi ngân sách Nhà nước được công khai, dân chủ, tiết kiệm, góp phần thúc đẩy nhiệm vụ chính trị - kinh tế của địa phương, nhất là đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông, điện, đường, trường, trạm...
Các thành phần kinh tế tiếp tục được Đảng bộ, chính quyền quan tâm tạo điều kiện phát triển, nhất là kinh tế tư nhân. Đến năm 2010, huyện Kiên Hải có trên 50 doanh nghiệp và 900 cơ sở kinh doanh cá thể với tổng số vốn đầu tư trên 300 tỷ đồng, hàng năm đóng góp từ 25-30% trong cơ cấu GDP của huyện.
Những kết quả trên cho thấy, kinh tế của huyện Kiên Hải trong giai đoạn 2010 - 2015 có mức tăng trưởng khá và ổn định. Tổng sản phẩm (GDP) bình quân đầu đến năm 2015 bình quân đầu người đạt tương đương 2.679 USD (chỉ tiêu nghị quyết là 2.481 USD). Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực: khu vực nông - lâm - thủy sản chiếm 42,52%; thương mại - dịch vụ - du lịch chiếm 34,69% và công nghiệp - xây dựng chiếm 22,79%(20).
Về văn hóa - xã hội:
Công tác giáo dục và đào tạo tiếp tục có chuyển biến tiến bộ trên tất cả các mặt. Nhờ sự quan tâm của Đảng bộ và chính quyền, cơ sở vật chất, trang thiết bị giảng dạy được đầu tư; đội ngũ giáo viên được bổ sung và từng bước chuẩn hóa nên chất lượng giáo dục và đào tạo của huyện được nâng lên qua từng năm. Đến năm 2015, toàn huyện có 10 trường với 106 phòng học, trong đó có 08 trường đạt tiêu chí xanh - sạch - đẹp; 26 căn nhà công vụ phục vụ cho giáo viên. Đội ngũ giáo viên các cấp học đạt chuẩn 100%, trong đó tỷ lệ giáo viên đạt trên chuẩn chiếm 65,59%. Nếu như năm học 2010 – 2011, tỷ lệ huy động trẻ từ 6 - 14 tuổi đến trường đạt 98%; học sinh tốt nghiệp tiểu học đạt 99,38%; tỷ lệ công nhận tốt nghiệp trung học cơ sở, đạt 93,85%; trung học phổ thông, đạt 96,80% thì đến năm học 2013 - 2014, tỷ lệ huy động trẻ từ 6 - 14 tuổi đến trường đạt 96,8%; tỷ lệ công nhận tốt nghiệp trung học cơ sở đạt 99,22% và trung học phổ thông đạt 100%. Kết quả học sinh tốt nghiệp, lên lớp, tỷ lệ học sinh trúng tuyển vào các trường đại học hàng năm đều tăng lên. Trong 5 năm (2010 – 2015), toàn huyện có 111/334 em học sinh thi đậu vào các trường cao đẳng, đại học. Đến năm 2015, huyện được công nhận hoàn thành chương trình tiểu học; xã Hòn Tre và xã Lại Sơn được công nhận đạt chuẩn Quốc gia phổ cập mầm non cho trẻ 5 tuổi.
Công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân và các chương trình y tế quốc gia luôn được chính quyền quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, nâng cấp trang thiết bị, từng bước đáp ứng yêu cầu khám, chữa bệnh cho nhân dân. Đến năm 2015, 100% các trạm y tế xã đều có bác sĩ phục vụ và đạt chuẩn quốc gia. Hàng năm, khám và điều trị bệnh cho khoảng trên 40.000 lượt người. Song song với công tác khám và điều trị bệnh, huyện cũng thực hiện tốt các chương trình y tế quốc gia; tăng cường công tác quản lý nhà nước về hành nghề y dược tư nhân, vệ sinh an toàn thực phẩm. Nhờ vậy, nếu như năm 2010, tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng ở Kiên Hải là 12% thì đến năm 2015 giảm xuống còn 11,61%; tỷ lệ tăng dân số tự nhiên từ 1,32% và giảm xuống còn 1,2% vào năm 2015 người dân tham gia bảo hiểm y tế đạt 50,66%, đều đạt chỉ tiêu Nghị quyết đề ra.
Các chính sách đảm bảo an sinh xã hội được triển khai tích cực, đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện và có nhiều chuyển biến đáng kể; công tác chăm lo gia đình chính sách, người già neo đơn, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn... tiếp tục được duy trì thực hiện tốt. Nhờ vậy, đời sống nhân dân được cải thiện nâng lên; tỷ lệ hộ nghèo từ 0,95% năm 2010 giảm xuống còn 0,70% năm 2015, và xã Nam Du được công nhận là xã không còn hộ nghèo; bình quân hàng năm giải quyết việc làm cho hơn 600 lao động; tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề tăng từ 20% năm 2010 lên 36,99% năm 2015. Trong 5 năm (2010 - 2015), Đảng bộ và chính quyền huyện Kiên Hải dành 2,269 tỷ đồng cất mới và sửa chữa 86 căn nhà tình nghĩa, nhà tình thương, nhà đại đoàn kết cho các gia đình chính sách, gia đình có hoàn cảnh khó khăn.
Lãnh đạo công tác quốc phòng - an ninh, Ban Chấp hành Đảng bộ Kiên Hải thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo công tác quốc phòng an ninh. Các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về nhiệm vụ quốc phòng, quân sự địa phương được quán triệt, cụ thể hóa, triển thai thực hiện đạt kết quả tốt. Luôn kết hợp chặt chẽ giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế với quốc phòng - an ninh; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân; xây dựng huyện thành khu vực phòng thủ vững chắc góp phần giữ vững khu vực phòng thủ của tỉnh. Hàng năm, đều bổ sung hoàn chỉnh các kế hoạch sẵn sàng chiến đấu phù hợp với tình hình thực tế của huyện. Thường xuyên tuyên truyền giáo dục trong nhân dân nâng cao ý thức cảnh giác trước những âm mưu “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch; giữ vững ổn định tình hình chính trị và trật tự an toàn xã hội trên vùng biển.
Công tác bảo vệ an ninh chính trị và giữ gìn trật tự an toàn xã hội được tăng cường, lực lượng công an cơ sở thường xuyên được củng cố kiện toàn, chất lượng được nâng lên. Công tác phối hợp thực hiện theo tinh thần Quyết định Nghị định 77/2010/NĐ-CP của Thủ tướng Chính phủ giữa các lực lượng Công an, Quân sự, Biên phòng được duy trì thường xuyên từ huyện đến cơ sở. Nhờ đó, trật tự an toàn xã hội ở Kiên Hải được đảm bảo.
Cùng với việc tập trung lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng – an ninh, Đảng bộ Kiên Hải còn chú trọng đến công tác xây dựng chính quyền, mặt trận và các đoàn thể chính trị xã hội theo hướng nâng cao hiệu lực quản lý trong các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm đáp ứng ngày càng cao nhu cầu về vật chất và tinh thân của nhân dân.
Công tác dân vận giai đoạn 2010 - 2015 chuyển biến khá toàn diện, nhất là nhận thức về vai trò vận động quần chúng trong hệ thống chính trị ngày càng được nâng lên. Các cấp ủy đảng đã quan tâm chỉ đạo tổ chức triển khai các chủ trương, nghị quyết của Đảng về công tác dân vận, công tác dân tộc, tôn giáo, ban hành nhiều văn bản chỉ đạo và tổ chức triển khai quán triệt trong nội bộ đảng viên và quần chúng nhân dân theo Quyết định 09-QĐ/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về “Quy chế công tác Dân vận của hệ thống chính trị; củng cố, kiện toàn, tập huấn, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ dân vận, Mặt trận và các tổ chức đoàn thể. Hàng năm đều tổ chức sơ kết, tổng kết các chủ trương, nghị quyết của Đảng và Chính phủ có liên quan đến công tác dân vận. Chỉ đạo thực hiện có hiệu quả phong trào thi đua “Dân vận khéo”.
Trong 5 năm (2010 - 2015), huyện đã cử trên 100 lượt cán bộ chủ chốt, cán bộ làm công tác dân vận cấp huyện và xã đi tập huấn, bồi dưỡng về công tác dân vận, dân tộc, tôn giáo; qua đó đã giúp cho các đồng chí nâng cao năng lực chuyên môn cũng như kỹ năng công tác dân vận. Nhờ đó, Mặt trận và các tổ chức đoàn thể đã thực hiện việc tuyên truyền được 5.465 cuộc với 199.925 lượt đoàn viên, hội viên tham dự. Ngoài ra, các tổ chức đoàn thể thực hiện các phong trào, các cuộc vận động về chính sách an sinh xã hội được tổng số tiền 02 tỷ 048 triệu đồng; cất mới 47 căn nhà đại đoàn kết và sửa chữa 18 căn với số tiền 01 tỷ 582 triệu đồng; đặc biệt là vận động các nguồn lực xây dựng nông thôn mới được 04 tỷ 929 triệu đồng.
Hoạt động của Hội đồng nhân dân đã có nhiều đổi mới, chất lượng nội dung các kỳ họp và vai trò giám sát của Hội đồng nhân dân, đại biểu Hội đồng nhân dân ngày càng tiến bộ; triển khai thực hiện có hiệu quả các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nươc, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần nhân dân trong huyện.
Bộ máy chính quyền các cấp tiếp tục được củng cố, kiện toàn, hiệu lực, hiệu quả hoạt động được nâng lên. Lãnh đạo, điều hành thông qua chương trình, kế hoạch cụ thể, bám sát các chỉ tiêu, nhiệm vụ trọng tâm. Hàng năm, đều bổ sung, hoàn chỉnh quy chế làm việc của các cơ quan, tăng cường phối hợp giữa ngành và địa phương, nâng cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu và đội ngũ công chức trong chỉ đạo, điều hành, thực thi công vụ.
Những năm 2010 - 2015, huyện đẩy mạnh công tác cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa liên thông đã mang lại hiệu quả thiết thực, rút ngắn thời gian giải quyết hồ sơ cho người dân. Thông qua thực hiện cơ chế một cửa liên thông đội ngũ cán bộ công chức từng bước nâng lên về trình độ, năng lực, đổi mới, cải tiến một bước lề lối, tác phong làm việc trong giao tiếp, giải quyết công việc cho tổ chức, doanh nghiệp và công dân được kịp thời(21).
Công tác cải cách tư pháp được Huyện ủy chỉ đạo thực hiện theo Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp giai đoạn 2011-2015; chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp được nâng lên; công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý và đấu tranh phòng, chống tội phạm có chuyển biến tiến bộ; điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hàng năm đều đạt chỉ tiêu(22). Công tác tiếp công dân, tiếp nhận, xử lý và giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo có chuyển biến tích cực(23).
Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí đã có chuyển biến tích cực ở các cấp, các ngành. Trong 5 năm (2010 - 2015) huyện tổ chức thanh tra, kiểm tra 16 cuộc, phát hiện chi sai nguyên tắc tài chính, sai mục đích và xử lý thu hồi nộp ngân sách Nhà nước với số tiền là trên 1 tỷ đồng; kiểm điểm rút kinh nghiệm 16 tập thể, 36 cá nhân. Triển khai thực hiện nghiêm túc việc kê khai tài sản, thu nhập đối với cán bộ, công chức theo quy định của Đảng và Nhà nước.
Về xây dựng Đảng:
Trong quá trình xây dựng và phát triển huyện, Đảng bộ Kiên Hải luôn quán triệt quan điểm “phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt” và xem đây là nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ VII xác định: Chăm lo xây dựng Đảng bộ trong sạch vững mạnh, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực được xem là một trong những khâu đột phá nhằm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ VII (nhiệm kỳ 2010 - 2015).
Về công tác giáo dục chính trị tư tưởng tiếp tục được đổi mới và tập trung hơn. Các chủ trương, nghị quyết của cấp trên và cấp mình được Huyện ủy quán triệt, triển khai phù hợp với tình hình thực tế của địa phương(24). Công tác thông tin, tuyên truyền, nắm bắt dư luận xã hội được tăng cường, đổi mới, nhất là tổ chức tốt ngày sinh hoạt chính trị. Qua đó, thông báo kịp thời những vấn đề có tính thời sự liên quan đến tình hình trong tỉnh, trong nước và quốc tế đến với cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân, góp phần nâng cao nhận thức, hành động trong nội bộ và sự đồng thuận của xã hội. Tích cực đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, lệch lạc, các luận điệu tuyên truyền xuyên tạc, kích động của các thế lực thù địch, góp phần giữ ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn.
Nhận thức tầm quan trọng của công tác xây dựng Đảng nên ngay từ đầu nhiệm kỳ, Ban Thường vụ Huyện ủy đã chỉ đạo thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, gắn với Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị “về tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” đạt được những kết quả bước đầu khá tốt. Các cấp ủy Đảng quan tâm hơn trong việc học tập, tiếp thu chỉ thị, nghị quyết của cấp trên; quan tâm chỉ đạo giải quyết những vấn đề nổi cộm, bức xúc được nội bộ và nhân dân đồng tình. Đa số cán bộ, đảng viên đã có chuyển biến tốt về tinh thần trách nhiệm, chủ động, sáng tạo, thực hiện tốt hơn chức trách nhiệm vụ được giao. Ban Chấp hành, Ban Thường vụ Huyện ủy đã phát huy tốt vai trò gương mẫu trên mọi lĩnh vực, nhất là khắc phục tốt việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh gắn với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị và các phong trào thi đua yêu nước ở nhiều đơn vị, địa phương đã tạo được sự chuyển biến tích cực trên các mặt công tác.
Qua tổng kết 4 năm thực hiện cuộc vận động học tập và làm theo Bác, có 18/18 cơ quan hành chính tiết kiệm được 01 tỷ 490 triệu đồng; 13/13 đơn vị sự nghiệp công lập tiết kiệm được 02 tỷ 138 triệu đồng; một số địa phương, cơ quan, đơn vị có nhiều mô hình, cách làm hay được nhân rộng(25)... Qua đó, huyện có 26 tập thể và 157 cá nhân được Tỉnh ủy biểu dương, khen thưởng về học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Thực hiện đề án 03 của Tỉnh ủy và Kế hoạch số 30-KH/HU của Ban Thường vụ Huyện ủy về “nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức Đảng ở nông thôn đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới đến năm 2020”. Huyện ủy tập trung củng cố, kiện toàn nâng lên cả về số lượng và chất lượng hoạt động của các tổ chức cơ sở đảng(26). Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng bộ được tăng cường với 302 đảng viên mới được kết nạp nâng tổng số đảng viên toàn Đảng bộ lên 702 đảng viên. Hàng năm, công tác đánh giá, phân loại tổ chức đảng và đảng viên được các cấp ủy quan tâm thực hiện đúng quy trình, hướng dẫn của cấp trên(27). Các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng được giữ vững, dân chủ trong Đảng tiếp tục được mở rộng và phát huy. Hầu hết các cấp ủy, tổ chức đảng đều xây dựng và thực hiện khá tốt quy chế làm việc, giải quyết ngày càng tốt hơn mối quan hệ giữa tổ chức đảng với chính quyền, mặt trận và các đoàn thể cùng cấp.
Thực hiện Nghị quyết số 03-NQ/HU, ngày 30-1-2012 của Ban Thường vụ Huyện ủy về phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực huyện Kiên Hải giai đoạn 2012 - 2015, định hướng đến năm 2020. Trong nhiệm kỳ, huyện đã đưa đi đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ là 1.191 lượt cán bộ(28). Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ gắn với quy hoạch, nhu cầu nhiệm vụ chính trị và yêu cầu chuẩn hóa cán bộ, từ đó khắc phục dần sự hụt hẫng về cán bộ(29). Việc sử dụng, phân công cán bộ sau đào tạo được chú ý, nhiều đồng chí đã phát huy tốt và ngày càng trưởng thành. Hầu hết cán bộ được đề bạt, bổ nhiệm, luân chuyển đều nỗ lực, tích cực tiếp cận nhanh công việc, tạo được uy tín nơi công tác.
Công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật Đảng các cấp ủy, tổ chức đảng thực hiện tốt. Giai đoạn 2010-2015, Đảng bộ huyện Kiên Hải tiến hành kiểm tra theo Điều 30 Điều lệ Đảng được 573 cuộc với 162 lượt tổ chức đảng và 521 đảng viên; giám sát 382 cuộc với 84 lượt tổ chức đảng và 340 lượt đảng viên. Chỉ đạo Ủy ban Kiểm tra các cấp kiểm tra theo Điều 32 Điều lệ Đảng được 93 lượt tổ chức đảng và 24 đảng viên; giám sát 17 tổ chức đảng và 15 đảng viên. Qua kiểm tra, giám sát đã phát hiện và xử lý kỷ luật 40 đảng viên.
Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VII Đảng bộ huyện, Đảng bộ Kiên Hải đã vận dụng các cơ chế, chính sách của Trung ương và tỉnh phù hợp với thực tiễn của địa phương; đồng thời triển khai đồng bộ các giải pháp nên đã phát huy được tiềm năng, lợi thế của huyện là khai thác đánh bắt xa bờ, đẩy mạnh phát triển nuôi trồng thủy sản, phát triển dịch vụ - du lịch. Những lợi thế đó đã đưa nền kinh tế của huyện hàng năm có mức tăng trưởng khá; cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng định hướng. Nhiều công trình dự án lớn được đưa vào sử dụng, đặc biệt là công trình kéo điện lưới quốc gia từ đất liền vượt biển ra đảo Hòn Tre đã tạo động lực phát triển mới cho huyện; bộ mặt từ thành thị đến nông thôn có nhiều khởi sắc; các lĩnh vực văn hóa - xã hội cũng có nhiều chuyển biến tiến bộ; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân không ngừng được nâng lên. Quốc phòng-an ninh được củng cố, tăng cường; chủ quyền, biển đảo được giữ vững; an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tiếp tục được ổn định.
Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị được tập trung chỉ đạo thực hiện, nhất là thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 gắn với học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh được tổ chức thực hiện bước đầu tạo được chuyển biến tích cực trong Đảng bộ.
Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển cán bộ được quan tâm thực hiện tốt; năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng, đảng viên được nâng lên; công tác phát triển đảng viên mới vượt chỉ tiêu đề ra; công tác kiểm tra, giám sát được tiến hành thường xuyên, chặt chẽ.
Bộ máy chính quyền cấp huyện và cơ sở thường xuyên được củng cố, kiện toàn và từng bước nâng cao hiệu quả hoạt động. Nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận, các đoàn thể từng bước có đổi mới, chuyển biến nâng lên, khối đại đoàn kết toàn dân được tăng cường, tạo được sự đồng thuận cao trong xã hội.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, giai đoạn 2010 - 2015 còn một số hạn chế, yếu kém đó là:
Thực hiện chưa đạt một số chỉ tiêu của Nghị quyết Đại hội đề ra. Kinh tế tăng trưởng khá nhưng thiếu tính bền vững, phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh của huyện; chuyển dịch cơ cấu còn chậm chưa đạt mục tiêu Nghị quyết. Chưa khai thác triệt để tiềm năng, lợi thế để phát triển kinh tế như khai thác, đánh bắt xa bờ, nuôi trồng hải sản...; đầu tư cho phát triển dịch vụ - du lịch chưa tương xứng; việc thu hút nguồn lực, kêu gọi đầu tư còn khó khăn. Tình hình giao thông đi lại, điện, nước sinh hoạt còn gặp nhiều khó khăn; tình trạng ô nhiễm môi trường rác thải chậm được khắc phục. Tình hình tranh chấp ngư trường trên biển, tội phạm, tệ nạn xã hội từng lúc, từng nơi còn diễn biến phức tạp. Mức hưởng thụ của nhân dân về chăm sóc y tế, giáo dục, văn hóa văn nghệ, thể thao còn thấp.
Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng hệ thống chính trị được tập trung nhưng chuyển biến nâng lên còn chậm. Thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI gắn với học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh ở một số nơi hiệu quả chưa cao. Sự chuyển biến trong việc làm theo tấm gương đạo đức của Bác chưa nhiều, chưa rõ nét so với yêu cầu nhiệm vụ đề ra, chưa tạo được sức lan tỏa trong quần chúng nhân dân. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của một số cấp ủy, tổ chức cơ sở đảng chưa quyết liệt, đội ngũ cán bộ các cấp có mặt chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Hiệu quả hoạt động của Chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể trên một số mặt nâng lên chậm.
Nguyên nhân của những tồn tại trên là do năng lực lãnh đạo, điều hành của các cấp ủy Đảng, chính quyền từ huyện đến cơ sở có mặt chưa đáp ứng yêu cầu. Sự phối hợp, điều hành của Huyện ủy và một số ngành có lúc chưa chặt chẽ.
3. Kiên Hải trong thời kỳ 2015 - 2020
Từ ngày 03 đến ngày 05-8-2015, huyện Kiên Hải tiến hành Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ VIII, nhiệm kỳ 2015-2020. Có 110 đại biểu thay mặt cho 29 chi, đảng bộ trực thuộc và 702 đảng viên trong huyện tham dự.
Trên cơ sở đánh giá, kiểm điểm tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ VII, nhiệm kỳ 2010 - 2015 và xác định rõ những điều kiện thuận lợi, khó khăn của huyện trong những năm tới, Đại hội đề ra phương hướng, mục tiêu tổng quát trong những năm 2015 - 2020: Tập trung xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ huyện. Đẩy mạnh đầu tư xây dựng, phát triển kinh tế có tốc độ tăng trưởng đạt mức khá và cao hơn so với bình quân chung toàn tỉnh. Tập trung huy động nguồn lực để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội đồng bộ gắn với đẩy nhanh xây dựng nông thôn mới. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng dần tỷ trọng thương mại, dịch vụ, du lịch. Thực hiện có hiệu quả các vấn đề văn hoá - xã hội. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong hệ thống chính trị và toàn xã hội. Tăng cường quốc phòng - an ninh, xây dựng khu vực phòng thủ trên các đảo thành tuyến phòng ngự vững chắc, nhằm bảo vệ toàn vẹn chủ quyền biển, đảo. Phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc; đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng và nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể; tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý điều hành của chính quyền các cấp.
Đại hội đã thông qua một số chỉ tiêu đến năm 2020: Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm là 14,05%; Tổng giá trị sản xuất đạt 29.061 tỷ đồng, trong đó lĩnh vực nông - lâm - thủy sản đạt 17.824 tỷ đồng; công nghiệp - xây dựng đạt 6.309 tỷ đồng; thương mại - dịch vụ đạt 4.928 tỷ đồng. Sản lượng khai thác đạt 355 ngàn tấn; nuôi trồng thủy sản đạt 4.350 tấn. Huy động vốn đầu tư đạt 3.375 tỷ đồng; đảm bảo hàng năm thu, chi ngân sách đạt 100% chỉ tiêu cấp trên giao. 100% lộ giao thông nông thôn ở các xã được bê tông hoá hoặc lót đá; 4/4 xã cơ bản đạt các tiêu chí xã nông thôn mới. 100% trường đạt chuẩn “xanh-sạch-đẹp”; 02 trường đạt chuẩn quốc gia; tỷ lệ huy động học sinh từ 6 - 14 tuổi đến trường đạt từ 97% trở lên; trẻ 5 tuổi vào mẫu giáo đạt 100%; các trạm y tế đều có bác sĩ và giữ vững xã đạt chuẩn quốc gia về y tế; giảm tỷ lệ tăng dân số tự nhiên còn 1,15%; tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng còn 11%; tỷ lệ dân số tham gia bảo hiểm y tế đạt từ 75% trở lên; có 3/4 xã đạt chuẩn văn hoá; giới thiệu việc làm mới cho 2.000 lao động, tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt từ 50% trở lên, trong đó đào tạo nghề là 40%; phấn đấu hộ nghèo không tăng hơn so với nhiệm kỳ trước; tỷ lệ dân số được sử dụng nước hợp vệ sinh đạt từ 98%; phấn đấu 100% xã có điện lưới quốc gia; tỷ lệ hộ được sử dụng điện đạt từ 99% trở lên; 100% xã có nghĩa trang nhân dân và lò đốt rác; các chất thải rắn được thu gom, xử lý đạt từ 90% trở lên. Trong nhiệm kỳ phấn đấu tuyển quân hàng năm đạt 100% chỉ tiêu; xây dựng lực lượng dân quân tự vệ đạt 2,4% so với dân số; duy trì tỷ lệ đảng viên trong lực lượng dân quân tự vệ đạt từ 22% trở lên; duy trì 4/4 chi bộ Quân sự xã có cấp ủy; 100% ấp đội trưởng là đảng viên. Phấn đấu hàng năm có từ 98% trở lên đảng viên được tiếp thu các chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; có 95% tổ chức cơ sở đảng và 90% đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên; tỷ lệ đảng viên tham gia sinh hoạt chi bộ đạt từ 95 % trở lên; kết nạp 300 đảng viên mới. Có 90% các chi, tổ hội đạt từ khá, vững mạnh, xuất sắc, vận động quần chúng tham gia vào các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội đạt từ 75% trở lên.
Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khóa VIII, nhiệm kỳ 2015 - 2020 gồm 35 đồng chí. Đồng chí Ong Văn Ngay được bầu làm Bí thư. Các đồng chí Trần Thành Thân, Huỳnh Hoàng Sơn được bầu làm Phó Bí thư.
Sau Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ VIII, Ban Thường Huyện ủy đã tổ chức triển khai, quán triệt nghiêm túc Nghị quyết Đại hội trong toàn đảng bộ huyện và tuyên truyền, phổ biến sâu rộng trong nhân dân.
PHẦN KẾT
Từ một vùng biển đảo hoang sơ, bằng sự lao động cần cù, ý chí kiên cường, những người mở đất đã khắc phục thiên nhiên, bắt thiên nhiên phải phục vụ con người để hôm nay chúng ta có những cánh rừng xanh trên các đảo, cây trái bạt ngàn. Cộng đồng cư dân của Kiên Hải dù đến sớm hay muộn cũng đều có một vùng đất mới và chinh phục nó bằng chính bàn tay, khối óc của mình.
Quá trình chinh phục biển cả, bảo vệ các hòn đảo của nhân dân Kiên Hải gắn liền với quá trình đấu tranh chống áp bức bóc lột, chống thực dân, phong kiến của toàn dân ta. Mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân Kiên Hải đã gắn bó từ những năm 1945 để Kiên Hải trở thành một trong những địa phương đóng góp thiết thực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ quê hương Kiên Giang. Đó là truyền thống quí báu và cũng là niềm tự hào của Đảng bộ và quân dân Kiên Hải.
Kể từ khi những đảng viên Cộng sản về Kiên Hải hoạt động, nhất là từ khi chi bộ Đảng đầu tiên được thành lập (1945), nhân dân Kiên Hải luôn đoàn kết dưới sự lãnh đạo của Đảng, tin tưởng tuyệt đối và trung thành với Đảng. Nhân dân luôn đùm bọc và bảo vệ cơ sở Đảng bất chấp hiểm nguy. Ngược lại, Đảng bộ Kiên Hải luôn tin tưởng vào lòng yêu nước, lòng trung thành của nhân dân, gắn bó với nhân dân để phát động phong trào đấu tranh chống xâm lược.
Truyền thống bất khuất kiên cường, tin tưởng tuyệt đối và đoàn kết xung quanh Đảng của nhân dân Kiên Hải càng được nâng cao trong những năm tháng chống Mỹ, cứu nước. Dù cho bè lũ cướp nước và bán nước có thi hành những âm mưu, thủ đoạn tàn bạo đến đâu, nhưng những đảng viên trung kiên của Đảng và nhân dân Kiên Hải vẫn quyết tâm thực hiện lý tưởng giải phóng dân tộc.
Đất nước hoàn toàn giải phóng, Đảng bộ và quân dân Kiên Hải bước tiếp những chặng đường mới, chặng đường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, xây dựng cuộc sống ấm no và hạnh phúc cho nhân dân. Một chặng đường tuy không có kẻ thù trực tiếp đối mặt bằng bom đạn, nhưng không kém phần khó khăn, phức tạp. Với truyền thống đã được xây dựng và vun bồi suốt hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Đảng bộ và quân dân Kiên Hải đã vượt qua tất cả những khó khăn, hoàn thành nhiệm vụ trong giai đoạn mới góp phần xây dựng tỉnh Kiên Giang ngày thêm tươi đẹp.
Những thành tưu đạt được của Đảng bộ, nhân dân huyện Kiên Hải hôm nay đã minh chứng cho sự đúng đắn của đường lối của Đảng. Từ một địa bàn chưa mạnh về kinh tế, chịu tác động nhiều từ hậu quả chiến tranh, Kiên Hải đã vượt qua những khó khăn, trở thành một địa phương phát triển năng động trong tỉnh Kiên Giang. Quá trình đi lên của huyện Kiên Hải gắn liền với sự chỉ đạo của các cấp ủy Đảng và quan trọng nhất là sức mạnh đoàn kết của quần chúng nhân dân.
Từng thời kỳ cụ thể, Đảng bộ huyện Kiên Hải đề ra những chủ trương, quyết sách hợp lý để xây dựng và phát triển quê hương. Chặng đường 10 năm đầu sau ngày giải phóng, Kiên Hải đứng trước vô vàn khó khăn. Đặc biệt, từ khi thành lập huyện, Kiên Hải đã trở thành một trong những địa phương có diện tích mặt biển lớn thứ hai sau huyện Phú Quốc. Trước một địa bàn với những diễn biến đầy phức tạp, Đảng bộ Kiên Hải đã lãnh đạo quân dân giữ vững được an ninh chính trị, bảo vệ được thành quả của cách mạng.
Với truyền thống đấu tranh kiên cường trong kháng chiến, quân dân Kiên Hải tiếp tục phát huy với tinh thần cao độ trong đấu tranh bảo vệ quê hương. Sự ổn định trật tự xã hội trên địa bàn là một trong những yếu tố vô cùng quan trọng, giúp cho sự lãnh đạo của Đảng và hệ thống chính quyền trong quá trình quản lý, là niềm tin của quần chúng lao động đối với sự nghiệp xây dựng đất nước ta “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”. Không những làm tốt công tác an ninh chính trị trên địa bàn, quân dân Kiên Hải đã có những đóng góp lớn trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Trong những năm đổi mới, Kiên Hải được tỉnh đầu tư phát triển khá toàn diện. Đứng trước những thời cơ phát triển mới, trên cơ sở của địa phương, Kiên Hải đã chuyển đổi cơ cấu phù hợp để thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa. Chính sự chuyển dịch cơ cấu trên đã giúp Kiên Hải ngày càng tiến nhanh trên con đường phát triển và hội nhập.
Thời kỳ 2005 - 2015, tình hình trong nước: thiên tai, dịch bệnh… và khó khăn của huyện đảo đã có những tác động bất lợi đến quá trình triển khai thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ VI và VII. Nhưng với sự nỗ lực của toàn Đảng bộ, nhất là sự đoàn kết nội bộ, đoàn kết trong nhân dân đã chung sức, chung lòng vượt qua nhiều khó khăn, gặt hái được những thành tựu quan trọng và khá toàn diện.
Trong lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội, Đảng bộ và chính quyền luôn bám sát nhiệm vụ mà nghị quyết Đại hội đề ra, xác định rõ nhiệm vụ trọng tâm của huyện, nhiệm kỳ 2005 - 2010 là: Tập trung phát triển kinh tế theo hướng: ngư nghiệp, thương mại dịch vụ - du lịch, tiểu thủ công nghiệp. Trong đó các ngành ngư nghiệp, thương mại dịch vụ-du lịch, tiểu thủ công nghiệp. Bước sang nhiệm kỳ VII (2010 - 2015), Đảng bộ xác định nhiệm vụ trọng tâm là: Tiếp tục tập trung xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, toàn diện; phát huy dân chủ và sức mạnh toàn dân; khai thác tốt tiềm năng, lợi thế đưa Kiên Hải phát triển nhanh và bền vững. Trong đó, tập trung khai thác, phát huy hiệu quả các tiềm năng thế mạnh, thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh, bền vững.
Nhờ đó, trong 10 năm (2005 - 2015) nền kinh tế nông - lâm - thuỷ sản của Kiên Hải tăng trưởng vượt bậc. Nếu như thời kỳ (2005 - 2010) tăng trưởng bình quân 7,63%/năm thì ở thời kỳ (2010 - 2015) là 13,12% và giữ vai trò quyết định tốc độ tăng trưởng kinh tế của huyện. Tổng sản lượng khai thác hải sản đạt 312,38 ngàn tấn, bình quân hàng năm tăng 2%; nuôi trồng thủy sản phát triển mạnh, nhất là thời kỳ 2011 - 2015, tăng gấp 10 lần so với đầu giai đoạn 2005 - 2010; Tổng sản lượng nuôi trồng đạt 2,313 ngàn tấn, tăng bình quân hàng năm 23,25%, gấp 4,02 lần so với giai đoạn 2005 - 2010.
Tổng sản phẩm (GDP) bình quân đầu người năm sau cao hơn năm trước. Nếu như, giai đoạn 2005 - 2010, tổng sản phẩm bình quân đầu đạt 1.545 USD (chỉ tiêu Nghị quyết là 1.400 USD), tăng trưởng bình quân đạt 14,06% (vượt 1,87% so với Nghị quyết đề ra) thì đến năm 2015 bình quân đầu người đạt tương đương 2.679 USD (chỉ tiêu nghị quyết là 2.481 USD).
Cơ cấu kinh tế của huyện tiếp tục chuyển dịch đúng hướng. Trong đó, đặc biệt là tỷ trọng trong khu vực thương mại - dịch vụ - du lịch tăng 9,82%.
Kết cấu hạ tầng được tập trung đầu tư xây dựng. Các tuyến đường quanh đảo, ngang đảo và bến cặp tàu xã Lại Sơn và An Sơn; khu neo đậu tránh trú bão xã Hòn Tre, đặc biệt là kéo điện lưới quốc gia đến trung tâm huyện đã tạo được chuyển biến mạnh mẽ làm thay đổi bộ mặt nông thôn, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng nâng tỷ trọng thương mại, dịch vụ và du lịch tăng 9,82%. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ của huyện, thời kỳ 2005 - 2010 tăng 3,6 lần và thời kỳ 2011 - 2015 là 3,8 lần.
Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng, đội ngũ cán bộ, đảng viên được nâng lên. Phương thức lãnh đạo của cấp ủy và điều hành của chính quyền được đổi mới, qua việc lãnh đạo bằng quy chế, chương trình, kế hoạch đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc kiểm tra, giám sát của đảng viên và tổ chức cơ sở đảng; rất dân chủ, hiệu quả.
Việc triển khai cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” và “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” được thực hiện nghiêm túc bước đầu tạo được sự chuyển biến về nhận thức và trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ, tác phong làm việc, trong cuộc sống thường ngày của đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức Nhà nước của huyện.
Chính quyền chú trọng nâng cao năng lực, hiệu lực quản lý điều hành, tập trung vào những nhiệm vụ trọng tâm, then chốt; kịp thời giải quyết, phục vụ nhân dân… cải cách thủ tục hành chính đã tạo được sự chuyển biến về ý thức trách nhiệm giải quyết công việc của đội ngũ cán bộ, công chức Nhà nước, đáp ứng kịp thời yêu cầu của nhân dân và doanh nghiệp.
Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội đã phát huy tốt vai trò của mình, góp phần đưa chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; các nghị quyết của tỉnh và của huyện vào cuộc sống.
Những thành tựu quan trọng và khá toàn diện của Đảng bộ và nhân dân Kiên Hải trong những năm qua sẽ là nền tảng vững chắc để Đảng bộ tiếp tục lãnh đạo, xây dựng huyện nhà phát triển nhanh và bền vững trong những năm tiếp theo, góp phần xứng đáng cùng tỉnh thực hiện thành công mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam: “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”./.
DANH SÁCH BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ
HUYỆN TỪ NĂM 1983 ĐẾN NĂM 2020
1. BAN CHẤP HÀNH LÂM THỜI (1983 - 1986)
Ban Thường vụ
1. Võ Thành Quyết (Tư Quyết) Bí thư Huyện ủy
2. Lương Văn Khải, Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy
3. Phạm Minh Sang, Phó Bí thư, Chủ tịch UBND huyện (từ tháng 9/1983, giữ chức Bí thư Huyện ủy thay đồng chú Tư Quyết)
4. Nguyễn Văn Thủy Ủy viên
5. Trần Thanh Bình Ủy viên
6. Trần Văn Tố Chỉ định bổ sung tham gia Ban chấp hành, Ban Thường vụ cuối năm 1984 và đầu năm 1985 chỉ định giữ chức
Bí thư Huyện ủy thay đồng chí Phạm Minh Sang.
Ủy viên Ban chấp hành chỉ định lần đầu
7. Đoàn Văn Tiết
8. Nguyễn Hữu Trang
9. Trương Hoàng Chiêu
10. Trần Dung
11. Nguyễn Hoàng Dũng
Ủy viên Ban chấp hành chỉ định bổ sung lần hai
12. Huỳnh Văn Gành
13. Trần Công Lập
2. BAN CHẤP HÀNH KHÓA I, NHIỆM KỲ
1986 - 1988
Ban Thường vụ
1. Trần Văn Tố Bí thư Huyện ủy
2. Huỳnh Văn Gành Phó Bí thư Thường trực
3. Trương Hoàng Chiêu Phó Bí thư, Chủ tịch UBND huyện
4. Hồ Minh Vọng Ủy viên
5. Đoàn Văn Tiết Ủy viên
6. Huỳnh Văn Trọng Ủy viên
Ủy viên Ban Chấp hành chính thức
7. Nguyễn Hoàng Dũng
8. Đặng Quốc Chinh
9. Nguyễn Thành Quang
10. Lê Văn Tính
11. Trần Mười Lớn
12. Nguyễn Văn Ngà
13. Trần Công Lập
14. Trần Văn Tùng
15. Trần Kha Nhung
16. Đoàn Văn Thạnh
Ủy viên Ban chấp hành dự khuyết
17. Trần Văn Sĩ
18. Lê Hiền Nhân
19. Lê Hữu Hiền.
3. BAN CHẤP HÀNH KHÓA II, NHIỆM KỲ
1989 - 1991
Ban Thường vụ
1. Trần Văn Tố Bí thư Huyện ủy
2. Trần Công Lập Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy
3. Huỳnh Văn Gành Phó Bí thư, Chủ tịch UBND huyện
4. Đoàn Văn Tiết Ủy viên
5. Hồ Văn Thanh Ủy viên
6. Hồ Minh Vọng Ủy viên
7. Nguyễn Hoàng Dũng Ủy viên
Ủy viên Ban chấp hành
8. Đặng Quốc Chinh
9. Nguyễn Văn Hoàng
10. Nguyễn Thành Quang
11. Trần Mười Lớn
12. Trần Kha Nhung
13. Nguyễn Văn Ngà
14. Dương Ngọc Minh
15. Nguyễn Minh
16. Nguyễn Văn Yên
17. Lê Tấn Tài
18. Lê Hiền Hữu
19. Đặng Quốc Hùng
20. Trần Thành Thân
21. Trương Văn Hưng
22. Nguyễn Thanh Long
23. Võ Văn Lùng
24. Nguyễn Văn Trường
25. Lê Công Đính
4. BAN CHẤP HÀNH KHÓA III, NHIỆM KỲ 1991 - 1995
Ban Thường vụ
1. Huỳnh Văn Gành Bí thư Huyện ủy
2. Đoàn Văn Tiết Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy
3. Trần Công Lập Phó Bí thư, Chủ tịch UBND huyện
4. Trần Mười Lớn Ủy viên
5. Lương Quốc Bình Ủy viên
6. Nguyễn Chí Trường Ủy viên
7. Hồ Văn Thanh Ủy viên
Ủy viên Ban chấp hành (tại Đại hội bầu)
8. Ngô Văn Nghĩa
9. Đặng Văn Lức
10. Trần Thành Thân
11. Lê Văn Phấn
12. Nguyễn Văn Ngà
13. Nguyễn Văn Trường
14. Lê Tấn Tài
15. Lê Hiền Nhân
16. Nguyễn Văn Yên
17. Lê Hiền Hữu
Ủy viên Ban chấp hành (bổ sung sau Đại hội)
18. Vũ Đình Quân
19. Đặng Công Huẩn
20. Nguyễn Thanh Long
21. Trần Văn Huyến
22. Bùi Đức Thắng
5. BAN CHẤP HÀNH KHÓA IV, NHIỆM KỲ 1996 - 2000
Ban Thường vụ
1. Trần Công Lập Bí thư Huyện ủy
2. Trần Mười Lớn Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy
3. Đoàn Văn Tiết Phó Bí thư, Chủ tịch UBND huyện
4. Huỳnh Tòng Ủy viên
5. Nguyễn Thanh Long Ủy viên
6. Nguyễn Chí Trường Ủy viên
7. Lương Quốc Bình Ủy viên
Ủy viên Ban chấp hành (tại Đại hội bầu)
8. Vũ Đình Quân
9. Đặng Quốc Chinh
10. Ngô Văn Nghĩa
11. Đặng Văn Lức
12. Trần Thành Thân
13. Trần Văn Huyến
14. Bùi Đức Thắng
15. Lê Văn Phấn
16. Nguyễn Văn Ngà
17. Nguyễn Văn Trường
18. Lê Tấn Tài
19. Lê Hiền Nhân
20. Nguyễn Văn Chẹt
21. Nguyễn Minh Kế.
6. BAN CHẤP HÀNH KHÓA V, NHIỆM KỲ
2000 - 2005
Ban Thường vụ
1. Đoàn Văn Tiết Bí thư Huyện ủy
2. Trần Mười Lớn Phó Bí thư, Chủ tịch UBND huyện
3. Nguyễn Thanh Long Ủy viên Thường trực Huyện ủy
4. Đặng Quốc Chinh Ủy viên
5. Lê Văn Phấn Ủy viên
6. Lương Quốc Bình Ủy viên
7. Mai Anh Chiến Ủy viên
8. Mai Quang Tốt Ủy viên
9. Hồ Minh Tuấn Chỉ định bổ sung tham gia Ban chấp hành, Ban Thường vụ và giữ chức Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy
Ủy viên Ban chấp hành (tại Đại hội bầu)
10. Ngô Văn Nghĩa
11. Đặng Văn Lức
12. Vũ Đình Quân
13. Trần Thành Thân
14. Trần Văn Huyến
15. Ngô Thanh Phúc
16. Võ Thị Mỹ Lộc
17. Trần Chí Nhỏ
18. Võ Thị Xuân Đào
19. Nguyễn Thanh Phong
20. Trần Công Lơ
21. Tạ Thanh Hải
22. Lê Hiền Nhân
23. Lê Tấn Tài
24. Nguyễn Văn Trường
25. Nguyễn Văn Chẹt
Ủy viên Ban chấp hành (bổ sung sau Đại hội)
26. Nguyễn Khải Hoàng
27. Đoàn Hồng Duy
28. Lê Minh Công
7. BAN CHẤP HÀNH KHÓA VI, NHIỆM KỲ
2005 - 2010
Ban Thường vụ
1. Đoàn Văn Tiết Bí thư Huyện ủy
2. Trần Mười Lớn Phó Bí thư, Thường trực Huyện ủy
3. Hồ Minh Tuấn Phó Bí thư, Chủ tịch UBND huyện
4. Trần Thành Thân Ủy viên, cuối nhiệm kỳ bổ sung Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy, thay cho đồng chí Trần Mười Lớn chuyển về làm Phó Chủ tịch UBMT Tổ quốc Việt Nam tỉnh
5. Lương Quốc Bình Ủy viên, sau đó chỉ định bổ sung Phó Bí thư Huyện ủy, bầu làm Chủ tịch UBND huyện thay đồng chí Hồ Minh Tuấn, chuyển về UBKT Tỉnh ủy
6. Nguyễn Khải Hoàng Ủy viên
7. Huỳnh Trọng Thắng Ủy viên
8. Đặng Quốc Chinh Ủy viên
9. Đoàn Hồng Duy Ủy viên
10. Lê Hiền Nhân Ủy viên
11. Trương Thanh Toàn Chỉ định bổ sung tham gia Ban chấp hành, Ban Thường vụ và giữ chức Phó Bí thư, sau đó bổ sung giữ chức Bí thư Huyện ủy thay đồng chí Đoàn Văn Tiết nghỉ hưu 01/6/2008
12. Mai Quang Tốt Ủy viên
13. Lê Văn Chuyển Ủy viên (bổ sung)
14. Ong Văn Ngay Tháng 7-2010 chỉ định bổ sung tham gia Ban chấp hành, Ban Thường vụ và giữ chức Bí thư Huyện uỷ thay đồng chí Trương Thanh Toàn, chuyển công tác về làm Phó Ban Dân vận Tỉnh ủy
15. Nguyễn Hoàng Tuấn Ủy viên bổ sung
Ủy viên Ban chấp hành (tại Đại hội bầu)
16. Ngô Văn Nghĩa
17. Trịnh Văn Quang
18. Huỳnh Thanh Bình
19. Bành Tòng Mẫn
20. Võ Thị Xuân Đào
21. Mai Ánh Hồng
22. Trần Công Lơ
23. Võ Thị Mỹ Lộc
24. Trần Thị Hồng
25. Tạ Thanh Hải
26. Nguyễn Văn Thơi
27. Trương Văn Năm
28. Lê Minh Công
29. Nguyễn Thanh Phong
30. Châu Minh Tuấn
31. Đoàn Hồng Dinh
32. Ngô Văn Thắng
33. Tiết Văn Tạo
Ủy viên Ban chấp hành (bổ sung sau Đại hội)
34. Trần Văn Đoàn
35. Trần Tiến Dũng
36. Nguyễn Chính Luận
37. Nguyễn Hoàng Giang
8. BAN CHẤP HÀNH KHÓA VII, NHIỆM KỲ 2010 - 2015
Ban Thường vụ
1. Ong Văn Ngay Bí thư Huyện ủy
2. Trần Thành Thân Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy
3. Lương Quốc Bình Phó Bí thư, Chủ tịch UBND huyện
4. Nguyễn Khải Hoàng Ủy viên
5. Trần Thị Hồng Ủy viên
6. Đặng Quốc Chinh Ủy viên
7. Lê Văn Chuyển Ủy viên
8. Đoàn Hồng Duy Ủy viên
9. Nguyễn Hoàng Tuấn Ủy viên
10. Huỳnh Trọng Thắng Ủy viên
11. Huỳnh Thanh Bình Ủy viên
12. Châu Minh Tuấn Ủy viên, (bổ sung)
13. Trần Văn Thường Ủy viên, (bổ sung)
14. Huỳnh Hoàng Sơn Tháng 5/2015, chỉ định tham gia Ban chấp hành, Ban Thường vụ và giữ chức Phó Bí thư Huyện ủy, bầu làm Chủ tịch UBND huyện, thay cho đồng chí Lương Quốc Bình chuyển về tỉnh làm Phó giám đốc Sở Công thương
Ủy viên Ban chấp hành (tại Đại hội bầu)
15. Nguyễn Văn Đượm
16. Lê Minh Công
17. Trịnh Văn Quang
18. Đặng Thị Lem
19. Tạ Thanh Hải
20. Mai Ánh Hồng
21. Trần Công Lơ
22. Trương Đức Thành
23. Nguyễn Minh Tâm
24. Nguyễn Văn Chẹt
25. Nguyễn Hoàng Giang
26. Ngô Văn Nghĩa
27. Trần Tiến Dũng
28. Trần Văn Đoàn
29. Nguyễn Thị Nguyên
30. Nguyễn Chính Luận
31. Lữ Hoàng Khởi
32. Lê Minh Trung
33. Nguyễn Văn Trí
34. Tiết Văn Tạo
35. Nguyễn Văn Năng
36. Nguyễn Văn Thơi
Ủy viên Ban chấp hành (bổ sung sau Đại hội)
37. Nguyễn Hoàng Điểm
38. Huỳnh Cao Phướng
39. Lê Minh Trị
40. Huỳnh Văn Lời
41. Lê Kim Pha
9. BAN CHẤP HÀNH KHÓA VIII, NHIỆM KỲ 2015 - 2020
Ban Thường vụ
1. Ong Văn Ngay Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch HĐND huyện
2. Trần Thành Thân Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy
3. Huỳnh Hoàng Sơn Phó Bí thư, Chủ tịch UBND huyện
4. Đoàn Hồng Duy Ủy viên, đến tháng
7-2017 chỉ định làm phó Bí thư Thường trực thay đồng chí Trần Thành Thân, nghỉ hưu
5. Châu Minh Tuấn Ủy viên
7. Trần Thị Hồng Ủy viên
7. Tiết Văn Tạo Ủy viên
8. Lê Minh Công Ủy viên
9. Huỳnh Thanh Bình Ủy viên
10. Trần Văn Thường, Ủy viên
11. Nguyễn Hoàng Tuấn Ủy viên
12. Nguyễn Hoàng Giang Ủy viên, (bổ sung)
13. Đoàn Hữu Lợi Ủy viên, (bổ sung)
14. Lưu Văn Chiều Ủy viên, (bổ sung)
15. Trần Quốc Việt Tháng 5-2020, chỉ định tham gia Ban chấp hành, Ban Thường vụ và giữ chức Bí thư Huyện ủy thay đồng chí Ong Văn Ngay chuyển về tỉnh làm Phó Ban Dân vận Tỉnh ủy
16. Nguyễn Quốc Tuấn Tháng 5-2020, chỉ định tham gia Ban chấp hành, Ban Thường vụ và giữ chức Phó Bí thư Huyện ủy, bầu làm Chủ tịch UBND huyện thay đồng chí Huỳnh Hoàng Sơn chuyển về tỉnh làm Phó Giám đốc Sở Công thương
Ủy viên Ban Chấp hành (tại Đại hội bầu)
17. Nguyễn Văn Đượm
18. Lê Minh Trung
19. Tạ Thanh Hải
20. Nguyễn Hoàng Điểm
21. Nguyễn Chính Luận
22. Nguyễn Hoài Kiên
23. Nguyễn Thị Nguyên
24. Đặng Thị Lem
25. Lê Thị Hoàng Mai
26. Ngô Văn Nghĩa
27. Trần Quốc Toản
28. Mai Ánh Hồng
29. Lê Kim Pha
30. Trương Đức Thành
31. Nguyễn Văn Trí
32. Lê Minh Trị
33. Trịnh Kiên Cường
34. Danh Sót
35. Lê Quang Tấn
36. Phan Xuân Vũ
37. Trần Văn Đoàn
38. Đào Hữu Hiền
39. Huỳnh Văn Lời
Ủy viên Ban chấp hành (bổ sung sau Đại hội)
40. Phạm Quang Trí
41. Võ Văn Võ
42. Dương Đình Bắc
43. Phạm Song Pha
44. Nguyễn Thành Đức
45. Lê Ngọc Minh
46. Trần Quốc Ánh
47. Trần Như Tiến
48. Phùng Cẩm Loan.
10. BAN CHẤP HÀNH KHÓA IX, NHIỆM KỲ 2020 - 2025
Ban Thường vụ
1. Trần Quốc Việt Bí thư Huyện ủy
2. Đoàn Hồng Duy Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy, Chủ tịch HĐND huyện
3. Nguyễn Quốc Tuấn Phó Bí thư, Chủ tịch UBND huyện
4. Châu Minh Tuấn Ủy viên
5. Tiết Văn Tạo Ủy viên
6. Lê Minh Công Ủy viên
7. Huỳnh Thanh Bình Ủy viên
8. Nguyễn Hoàng Giang Ủy viên
9. Đoàn Hữu Lợi Ủy viên
10. Lưu Văn Chiều Ủy viên
11. Nguyễn Thị Nguyên Ủy viên
Ủy viên Ban Chấp hành (tại Đại hội bầu)
12. Nguyễn Hoàng Điểm
13. Trần Quốc Toản
14. Nguyễn Hoài Kiên
15. Lê Ngọc Minh
16. Nguyễn Thị Tuyết Ngoan
17. Phùng Cẩm Loan
18. Trần Như Tiến
19. Võ Hồng Phú
20. Lê Thị Hoàng Mai
21. Trần Văn Đoàn
22. Trần Quốc Ánh
23. Nguyễn Thành Đức
24. Phạm Quang Trí
25. Phạm Song Pha
26. Trương Đức Thành
27. Lê Minh Trị
28. Nguyễn Văn Đượm
29. Huỳnh Văn Lời
30. Nguyễn Thị Kim Phụng
31. Võ Văn Võ
32. Dương Đình Bắc
33. Lê Kim Pha
34. Nguyễn Chí Linh
(Chỉ định tham gia Ban Chấp hành ngày 18-8-2021)
Tập tin đính kèm:
16. LICH SU HUYEN KIEN HAI 1983.2015.pdf